GIỚI LUẬT TU TỊNH ĐỘ
1. BA TỘI DO THÂN MÌNH LÀM RA
SÁT SANH : Hại người, giết vật, mình giết hoặc xúi người giết. Thấy giết mà vui ( trong bụng muốn cho người chết hoặc vật chi chết) hoặc ếm trù, hoặc dùng ngòi viết mà hại thầm, bày cuộc sát sanh rượu thịt.
DU ĐẠO: Chẳng những ăn trộm, ăn cắp, lấy ngang hoặc lường gạt, vay mượn chẳng trả cũng phạm khoản này.
TÀ DÂM : Dâm tha nơn thê nữ, tự dâm, giáo nhơn dâm, lấy vợ con người ta, hoặc xúi người tà dâm, phàm thuộc về loạn luân núp lén, huê nguyệt trái lẽ (không phải vợ chồng mình) thời gọi là tà dâm.
2. TỘI VÌ LỜI NÓI
VỌNG NGỮ : Phỉ báng Tam Bảo, khen chê trái cách, chuyện quấy nói phải, chuện phải nói quấy, nói bậy, nói láo, nói không thiệt, mạo tên thánh thần tiên Phật để gạt đời cho mê hoặc.
Ý NGỮ: Đặc lời dâm từ, truyện tình tục tĩu, trây nhớt, lời ca huê tình huê nguyệt, giục đời sanh thói tà dâm (gọi là dâm thơ) hò hát bất chánh
LƯỠNG THIỆT : Xúi giục hai bên, gièm siểm cho cha con, mẹ con, vợ chồng, anh, em, bà con, bằng hữu bất hoà, làm cho hai bên giận nhau, đâm thọc, nói hành, thất tín, trước mặt nói phải, sau lưng nói quấy
ÁC KHẨU: Chửi rủa, mắng nhiếc, sĩ nhục, chê biếm (Kiêu ngạo) nói độc, chửi thề, nói tổn đức, nói ác, lời hăm giết hại.
3. ĐIỀU ÁC THUỘC VỀ TÂM
THAM: Lòng tham gian muốn lấy của người (lợi kỷ)
SÂN : Giận hờn, nóng nẩy, ganh ghét âm mưu, tính độc
SI: Ngu mê bất thông, cử sự phải, chẳng dám làm. Nhè sự quấy lầm mà làm mãi, điên đảo thị phi không biện minh phải quấy, nghe huyễn hoặc cũng tin như gọi lạy phật phải dập đầu cho sưng mới có lòng. Gọi ngao, ốc, tôm, cua, không máu là đồ chay mà ăn. Gọi thuốc bắc có vỏ con ve lột (thiền thối) là đồ mặn mà không uống. Thậm chí ép kẻ thiếu niên bỏe cha mẹ đi tu cho mang tôi bất hiếu, khiến bỏ chồng con vô chùa làm công thí không kể cang thường.
Theo luật tu Tịnh độ, thứ nhất trường trai cữ rượu thịt, không nên ăn năm món rau độc: hành, Hẹ, tỏi, kiệu, ngò, (ngò ra giống rau cần tàu) tuy đồ chay nhưng làm hại tinh khí thần. Hành làm ra mồ hôi cho mệt. Hẹ và kiệu là vật hưng dương vọng hoả. Ăn tỏi và ngò làm hơi lên họng, làm hao ngươn tinh mệt tâm thần.
Phật muốn độ tận chúng sanh, nên dạy tu Tịnh độ dễ quá, tuổi còn nhỏ, hoặc kẻ ăn chay trường chưa nổi thời hai ngày, lần sáu đến mười ngày, trong một tháng mà tập lên trường trai. Dầu tôm cá sống cũng không cho sát sanh, trong nhà gà vịt cũng vậy. Vật chi khỏi giết trong nhà thời khỏi sát sanh. Còn thịt chó trâu, bò, cày cũng phải cử tuyệt, vì hai thứ đó có công lớn với đời, nếu ăn Phật Không rước. Nếu mua ngoài chợ làm sẵn mắc hơn, vì ham rẽ mà chịu tội thời coi tiền bạc trọng hơn phần hồn. Lâm chung Phật không rước, uổng công tu hành. Dù của nhiều khó thác đem theo.
Luật cử sát sanh nghiêm cấm như vậy, vì loài tứ sanh và con chi không biết bò, bay máy cựa cũng có chủng Phật. Phật cũng độ cho tu thành Phật, không cho giết nó, ăn nó mà bổ mình, mạnh hiếp kẻ yếu. Vì lòng từ bi thương xót như vậy, nên ngài buộc trường trai. Nếu biết thấu hai chữ tánh mạng, thời trường trai dễ như chơi, chỉ đẹp miệng xác phàm vài năm, lúc lâm chung Phật không rước uổng biết dường nào
Ở thành thị dễ cử sát sanh, muốn ăn thịt cá ra chợ mua khỏi phải giết con gì trong nhà. Trái lại, ở nông thôn quê khó cử sát sanh, vì phần đông nuôi gà vịt hay bắt cá, tôm, cho đở tốn tiền, nhưng dễ phóng sanh (bằng cách lấy đất sét bao trứng cá đừng cho dính múi, bỏ xuống ao hồ, hay cứu kiến khi nạn ngập). Nếu sát sanh, những oan hồn tụ tập trong nhà chờ dịp báo thù.
Nhứt là cơn bệnh phải ăn chay trường, nếu ăn chay không nổi nên nhịn đó, chớ đừng ăn mặn cần niệm Di Đà cho lắm, nếu số phần tới, thời lúc ngặt mình đừng nhớ việc chi hết, bảo người nhà ngồi đỡ dậy, quay mặt về phía mặt trời lặn, niệm vài chục câu” Nam Mô A Di Đà Phật” cho lớn, rồi niệm thầm. Nếu thấy Phật Di Đà qua rước chẳng sai, nếu chưa tới số thiệt mạnh chắc chắn, ăn trường không đặng, cứ trở lại lục hoặc thập trai như xưa. Tới bệnh lại, cũng ăn chay trường như vậy.
Nội nhà lập nguyện giữ phép mà tu. Nếu ai tu có bệnh cũng biết dự phòng ăn trường đỡ cho đến mãn phần thời Di Đà rước hẳn. Nhất là người nhà, lúc ngặt mình, người bệnh niệm Phật, nội nhà niệm tiếp, cấm không cho kêu khóc, nếu kêu khóc thời thần thức khó siêu thoát vì còn quyến luyến cùng người thân, khó mà vãng sanh.
Có việc chi thời trối trước, đừng để tới chứng đó, làm bận rộn cho người bệnh khó có thể vãng sanh. Cách này là độ tận chúng sanh không bỏ sót ai hết. Tu tịnh độ như vậy, muông người lâm chung vãng sanh đủ muôn người, không phải khó như tham thiền ,hay luyện đơn.
Người tu tịnh độ trường trai 24 tháng, niệm Di Đà đủ 30 vạn câu, người giỏi nữa niệm thêm 30 vạn biến vãng sanh, thời có Phật ở trên đầu phò hộ, quả vị cao tòa sen lớn, giữ theo công quá cách chừa dữ làm lành. Mỗi tháng nhớ ngày giờ sám hối, cầu nguyện. Ban mai tụng nhựt khóa hoặc thập niệm lúc rảnh, thời lâm chung biết ngày giờ Phật đến rước. Nếu ai làm phước bố thí nhiều, thời không bệnh hoạn, ngồi chắp tay day mặt về hướng Tây mà niệm Phật xuất hồn. Ai có công khuyên độ nhiều người về cực lạc trước, khi phật rước hồn nghe tiếng nhạc hoặc có mùi thơm lạ. Nếu Phước lớn, thấy háo quang chiếu sáng, như vậy làm cho đời thấy nhãn tiền tin chắc tu theo.
Chừng vãng sanh về Tây Phương học đủ lục thông (6 phép thần thông) làm Phật, La- hán, xin phép Phật đi độ ông bà và cha mẹ về cực lạc, để báo ân chư Phật, La- hán.
Nếu ai may còn ông bà cha mẹ, thời lạy mà giảng tu Tịnh Độ, mình nguyện niệm Phụ, tu phụ cho chắc thành, nếu ông bà cha mẹ yếu sức vì già cả đến lâm chung Phật rước ông bà cha mẹ, nhãn tiền có điềm linh hiển. Ông bà cha mẹ ngồi tòa sen trước mà đợi ta, thời khỏi lo tuần tự tụng kinh cầu siêu mà tốn tiền, nên để số tiền ấy ấn tống kinh hay bố thí cho kẻ ngèo và hồi hướng công đức ấy vãng sanh Cựu lạc
Nếu rủi cha mẹ đã mãn phần trước, ta muốn báo hiếu cho mau thời chọn ngày sám hối lập nguyện niệm Phật thế cho 30 vạn câu cho mẹ vạn câu và nguyện phóng sanh bao nhiêu mạng, thí kinh bao nhiêu, bố thí mấy đồng, phải làm tất số mà cầu vong hồn cha mẹ tên họ chi, siêu thăng về cực lạc.
Niệm đến khi nào Phật ứng mộng mới thôi. Nếu giàu có, muốn tụng kinh niệm Phật cầu cho cha mẹ mình, cũng phải niệm thế ít nhiều mới cảm động, chớ ỷ có tiền mướn tụng niệm thôi thì vong hồn chỉ đầu thai hưởng phước chớ không siêu thăng được. Nguyện thí kinh phóng sinh, bố thí, tùy theo giàu nghèo mà niệm.
Trong kinh hồi hướng lời Vua Nhứt Điện Tần Quảng Vương phán rằng: nhà nghèo bố thí một đồng, sánh bằng nhà giàu bố thí một ngàn đồng. Tùy sức mà làm, đừng sợ thí ít không siêu, phải vay cho mắc nợ, tới chết trả không nổi, phạm khoảng du đạo. Phật không rước, nếu có tiền nhiều nên bố thí nhiều.
Nếu ông bà cha mẹ tuổi đã quá cao hay bệnh già quá yếu, năng lực của thân và tâm đều kém yếu, mình lạy mà giảng tu Tịnh độ và dùng phương pháp trợ lực sau đây:
Tất cả con cháu trong nhà, nhất là chính mình nên thay phiên nhau ở bên ông hay bà cao tiến niệm Phật, mỗi phiên độ nửa giờ. Mỗi ngày cứ luân phiên như thế, đừng cho tiếng niệm hở dứt. Ông hay bà có thể niệm theo càng tốt bằng không chỉ khuyên người nhiếp tâm nghe kỹ, cũng như niệm thì cũng được thưởng không rời Phật.
Những người trợ niệm chẳng mấy gì phí sức, mà lại gieo được nhân lành giải thoát về sau. Nếu có tiền mua một máy ghi âmthu bài giảng về thế giới Cực lạc trước đây. 48 điều nguyện của Phật Di Đà hoặc bài giảng nghĩa kinh Di Đà trong cuốn Lão Nhơn Đắc Ngộ, và tiếng niệm Phật cho rõ ràng, để phát hằng ngày liên tục cho ông bà nghe thì cũng có thể vãng sanh được, nên ngớ lúc ông bà ngặt mình cứ niệm Phật. Phương pháp trên đây có thể áp dụng cho người bệnh yếu gần chết.