Chương II
TẠNG LUẬT
Tạng Luật được kết tập từ năm cuốn sách
- Bất Cọng Trụ (Pārājika Pāḷi)- Ưng Đối Trị (Pācittiya Pāḷi)
- Đại Phẩm (Mahāvagga Pāḷi)
- Tiểu Phẩm (Cūlavagga Pāḷi)
- Luật Tạng Tập Yếu (Parivāra Pāḷi)
- Đại Phẩm (Mahāvagga Pāḷi)
- Tiểu Phẩm (Cūlavagga Pāḷi)
- Luật Tạng Tập Yếu (Parivāra Pāḷi)
1. Bất Cọng Trụ (Pārājika Pāḷi)
Pārājika Pāḷi là cuốn sách thứ nhất của Tạng Luật giải thích chi tiết về những điều luật quan trọng liên quan đến Bất Cọng Trụ và Tăng Tàn, cũng như Bất Định và Ưng Xả Đối Trị là những luật nhỏ
(a) Các tội Bất Cọng Trụ (Pārājika) và những hình phạt
Giới Bất Cọng Trụ gồm bốn loại được đặt
ra để ngăn ngừa bốn tội nghiêm trọng. Bất cứ ai phạm phải luật nào
trong những điều luật nầy sẽ bị thất bại trong mục đích trở thành tỳ
khưu.. Theo cách nói của Luật, tội Bất Cộng Trụ rơi vào người nào thì
người đó tự nhiên mất địa vị tỳ khưu; người đó không còn được công nhận
như là một thành viên của hội chúng tỳ khưu và không được phép trở thành
tỳ khưu lại. Người ấy phải hoặc trở về đời sống tại gia như là cư sĩ
hoặc trở lại địa vị của một sa di.
Người đã mất địa vị tỳ khưu vì phạm
phải bất cứ luật nào trong những luật nầy giống như người đó đã bị chặt
đầu khỏi thân hình ; người ấy không thể sống thậm chí nếu cái đầu được
gắn lại trên thân người đó; (ii) như lá lìa cành cây, không thể trở nên
xanh lại thậm chí nếu chúng được gắn lại vào cuốn lá; (iii) Như tảng đá
phẳng đã bị bửa ra; nó không thể liền lại được; (iv) như cây sồi đã bị
chặt ngang thân; nó sẽ không bao giờ mọc lại.
Bốn Tội Bất Cọng Trụ Dẫn Đến Mất Địa Vị Như Là Tỳ Khưu
(i) Bất Cọng Trụ thứ nhất: Bất cứ tỳ khưu nào hành dâm mất địa vị tỳ khưu.
(ii) Bất Cọng Trụ thứ hai: Bất cứ tỳ khưu nào có tác ý lấy cắp những gì không cho sẽ bị mất địa vị tỳ khưu.
(iii) Bất Cọng Trụ thứ ba: Bất cứ tỳ khưu nào có tác ý tước đoạt mạng sống của con người sẽ bị mất địa vị tỳ khưu.
(iv) Bất Cọng Trụ thứ tư: Bất cứ tỳ
khưu nào tuyên bố thành đạt mà thực sự không thành đạt, như là đắc thiền
hay Tuệ Đạo và Quả sẽ bị mất địa vị tỳ khưu.
Người phạm tội Bất Cọng Trụ là tội rất nghiêm trọng. Người đó không còn là tỳ khưu. Tội của người đó không thể chữa được.
(b) Mười Ba Tội Tăng Tàn và những hình phạt
Điều Luật Tăng Tàn gồm một loạt mười ba
điều luật đòi hỏi sự tham gia chính thức của Tăng từ đầu đến cuối trong
tiến trình làm cho người đó hết tội vi phạm.
(i) Một tỳ khưu đã phạm những điều luật
nầy và muốn hết tội trước tiên phải đến gần Tăng và sám hối tội đã phạm
tội. Tăng quyết định tội của người đó và ra lệnh người đó phải thọ nhận
hình phạt cấm phòng (parivāsa), hình phạt đòi hỏi người đó phải
sống đình chỉ mọi sự thân gần sinh hoạt với số tăng chúng còn lại, trong
nhiều ngày bằng với thời gian người đó biết mà che giấu tội lỗi
(ii) Vào lúc chấm dứt hình phạt cấm phòng (parivāsa) người đó phải trải qua một thời gian nhận hình phạt mānatta thêm sáu ngày nữa.để được Tăng chấp nhận lại.
(iii) Sau khi đã thực hành hình phạt mānatta, tỳ khưu đó thỉnh Tăng phục hồi lại đầy đủ mọi sự thân gần sinh hoạt với số Tăng Chúng còn lại.
Phẩm hạnh của người nầy được trong sạch như trước, sau khi có cuộc họp Tăng gồm ít nhất hai mươi vị tỳ khưu, tại đây ñatti , động cơ nhằm phục hồi địa vị của người nầy, được đọc theo sau ba lần đọc kammavācā, văn bản thủ tục tiến hành chính thức của Tăng.
Vài ví dụ về những tội Tăng Tàn.
(i) Tội xúc chạm vào thân phụ nữ (Kāyasamsagga):
Nếu tỳ khưu có ý dâm dục tà vạy xúc
chạm vào thân người nữ, như cầm tay, vuốt tóc hay sờ chạm vào bất cứ
phần nào trên cơ thể người nữ đó, người ấy phạm tội Tăng Tàn do xúc chạm
thân người nữ (Kāyasamsagga Sanghādisesa).
(iii) Tội làm mai dong (Sañcaritta)
Nếu tỳ khưu nào nào làm mai dong người
nam hay người nữ nào chung sống hợp pháp với nhau như chồng hoặc vợ hay
sắp đặt tạm thời như người đàn ông với bà chủ hay người đàn bà với và
một tình nhân, người ấy phạm tội Tăng Tàn do làm mai dong (Sañcaritta Sanghādisesa).
(c) Hai tội bất định (Aniyata) và hình phạt
Aniyata nghĩa là
bất định, không chắc. Có hai tội bất định tính chất của chúng là không
chắc thật vì liệu nó có phải là Bất Cọng Trụ hay Tăng Tàn hoặc Ưng Xả
Đối Trị. Nó được quyết định tuỳ theo những sự cung cấp dữ kiện trong
những luật sau đây:
(i) Nếu một tỳ khưu ngồi xuống chỗ
riêng tư một mình với một người nữ trong một nơi riêng biệt và khuất tầm
mắt, và thuận tiện cho mục đích trái đạo đức nào đó và nếu một tín nữ
đáng tin (nghĩa là, một bậc Thánh), thấy tỳ khưu đó, buộc tội ông phạm
bất cứ tội nào trong ba tội: (1) Bất Cọng Trụ, (2) Tăng Tàn, (3) Ưng Xả
Đối Trị, và tỳ khưu đó tự nhận tội rằng ông đã ngồi như vậy, tín nữ đáng
tin đó tìm thấy ông phạm một trong ba tội nầy
(ii) Nếu một tỳ khưu ngồi xuống nơi
riêng tư một mình với một người đàn bà trong một nơi không khuất tầm mắt
và không tiện cho mục đích trái đạo nhưng tiện cho việc nói lời dâm dục
đối với người nữ đó, và nếu một tín nữ đáng tin cậy (nghĩa là, một bậc
Thánh), thấy tỳ khưu đó, buộc tội ông về một tội nào trong hai tội (1)
tội Tăng Tàn (2) Ưng Xả Đối Trị và chính tỳ khưu đó nhận rằng ông đã
ngồi như vậy, tín nữ đó tìm thấy tội nào trong hai tội nầy.
(d) Ba mươi tội Ưng Xả Đối Trị và những hình phạt
Có ba mươi điều luật trong phạm trù tội
Ưng Xả Đối Trị và những hình phạt được đặt ra để kiềm chế tâm tham quá
đáng của tỳ khưu về việc sở hữu những vật dụng như y bát,v.v... Ví dụ,
tội đã phạm một trong những luật nầy khi vật dụng không cho phép có
được, hay khi vật có được nhiều hơn số lượng cho phép. Hình phạt gồm
trước hết từ bỏ những vật đặc biệt về vật mà tội đó bị phạm. Rồi theo
sau đó là sám hối về việc vi phạm điều luật, cùng với việc hứa không tái
phạm điều luật đó đối với toàn thể Tăng Đoàn, hay đối với một nhóm tỳ
khưu hay đối với tỳ khưu nào đó mà vật có được một cách sai trái đã được
dâng nộp.
Vài ví dụ về Tội Ưng Xả Đối Trị:
(i) Điều Học Ưng Xả Đối Trị.
Nếu bất cứ tỳ khưu nào giữ số lượng y
nhiều hơn cho phép, nghĩa là, y nội, y vai trái và y Tăng Già Lê, vị ấy
phạm tội đối với tội đó vị ấy phải dâng nộp y thặng dư và sám hối tội
của mình.
(ii) Điều học Cīvara Acchindana
Nếu tỳ khưu nào cho y của mình đến
người khác và sau đó, nổi giận hay bất bình bắt buộc trả lại hay bảo
người khác lấy lại dùm, người ấy phạm tội Ưng Xả Đối Trị.
Tội Ưng Xả Đối Trị là những tội nhẹ hơn so với những tội nghiêm trọng của Bất Cọng Trụ hay Tội Tăng Tàn.
2. Ưng Đối Trị (Pācittiya Pāḷi)
Ưng Đối Trị là cuốn sách thứ hai của
Tạng Luật liên quan đến những tội còn lại của tỳ khưu, đó là Ưng Đối
Trị, Ưng Phát Lồ, Ưng Học Pháp, Bảy Cách Dàn Xếp Việc Tranh Tụng và
những điều luật tương đương đối với tỳ khưu ni. Mặc dầu Pali gọi là Ưng
Xả Đối Trị, nó có tên đặc biệt là 'Suddha Pācittiya' Ưng Đối Trị thường để phân biệt với Ưng Xả Đối Trị như đã đề cập ở trên.
(a) Chín Mươi Hai Tội Ưng Đối Trị và Hình Phạt.
Có chín mươi hai điều luật trong loại nầy được phân thành chín phần. Vài ví dụ về loại tội nầy:
- Cố ý nói láo là tội Ưng đối trị.
- Tỳ khưu ngủ chung dưới một mái nhà và chung các bức tường có người nữ phạm tội Ưng Đối Trị
- Tỳ khưu đào đất hay sai bảo đào đất phạm tội Ưng Đối Trị.
- Tỳ khưu ngủ chung dưới một mái nhà và chung các bức tường có người nữ phạm tội Ưng Đối Trị
- Tỳ khưu đào đất hay sai bảo đào đất phạm tội Ưng Đối Trị.
Tội Ưng Đối Trị được chữa bằng cách chỉ nhận tội với một tỳ khưu khác.
(b) Bốn Tội Ưng Phát Lồ và Hình Phạt.
Trong phạm trù nầy có bốn tội và chúng
đều liên quan đến tư cách tác phong của tỳ khưu trong việc nhận vật thực
được đặt vào bát cho vị ấy. Tỳ khưu vi phạm bất cứ điều nào trong những
điều luật nầy, trong việc thú nhận lỗi, phải dùng một công thức đặc
biệt kể ra tính chất lỗi của vị ấy.
Luật đầu tiên của tội Ưng Phát Lồ đọc:
tỳ khưu thọ dụng vật thực loại cứng, loại mềm đã đưa tay nhận nó từ một
tỳ khưu ni mà người đó không có quan hệ gì đến tỳ khưu ấy và tỳ khưu ni
ấy đã đi khất thực quanh các nhà, thì nên thú nhận với một tỳ khưu khác
bằng cách nói, "Bạn, tôi đã làm việc đáng trách, không hợp và việc ấy
nên được thú nhận. Tôi thú nhận đã phạm tội Ưng Phát Lồ."
Những sự kiện dẫn đến việc đặt ra luật đầu tiên trong những điều luật nầy xảy ra tại thành Sāvatthi, nơi
vào một buổi sáng chư tỳ khưu và tỳ khưu ni đang đi khất thực. Một tỳ
khưu ni nào đó dâng vật thực mà nàng đã nhận đến một tỳ khưu nào đó,
người nầy lấy đi hết tất cả vật thực trong bát nàng. Tỳ khưu ni nầy đi
không có vật thực cho ngày hôm đó. Ba ngày liên tiếp nàng dâng vật thực
đến cùng một vị tỳ khưu, người nầy lại tiếp tục tước đọat hết tất cả vật
thực trong suốt ba ngày. Cuối cùng nàng bị đói gần ngất xỉu. Vào ngày
thứ tư trong lúc đi khất thực nàng bị ngất và ngã xuống vì quá yếu. Khi
Đức Phật nghe được điều nầy, ngài bảo tỳ khưu đó mang tội tà hạnh và đặt
ra điều luật trên.
(c) Bảy Mươi Lăm Điều Ưng Học Pháp về Cách Cư Xử Lịch Sự.
Bảy Mươi Lăm Điều Luật nầy được đặt ra
từ lúc đầu nhằm cho tỳ khưu cũng như sa di- những người muốn gia nhập
Tăng Đoàn ứng xử thích hợp trong mọi tình huống. Đa số những điều luật
nầy được đặt ra tại thành Sāvatthi khi có một nhóm lục sư ứng xử
vô kỷ luật. Những luật nầy được chia thành bốn nhóm. Nhóm đầu tiên có
hai mươi sáu điều liên quan đến tác phong tốt và cách ứng xử khi đi vào
thành phố và làng mạc. Nhóm thứ hai có ba mươi điều luật liên quan đến
phong cách lịch sự khi nhận vật thực và khi thọ dụng. Nhóm thứ ba có
mười sáu điều luật gồm những điều cấm giảng pháp cho những người không
tôn kính. Nhóm thứ tư có ba điều luật liên quan đến những cách không hợp
khi vào phòng vệ sinh và khạc nhổ.
(d) Bảy Cách Ổn Định Tranh Tụng (Adhikaraṇasamatha)
Cuốn Ưng Đối Trị kết thúc những điều luật dành cho tỳ khưu có một chương về bảy cách dàn xếp (Adhikaraṇasamatha)
Bốn Loại Tranh Tụng:
(i) Tranh tụng liên quan đến tranh cãi (Vivādādhikarana)-
những gì là Pháp những gì không phải là Pháp; những gì là Luật những gì
không phải là Luật; Những gì Đức Phật tuyên thuyết những gì không phải
Đức Phật tuyên thuyết; và những gì là tội những gì không phải là tội..
(ii) Tranh tụng liên quan đến khiển trách (Anuvādādhikaraṇa) - Buộc tội và tranh cãi nổi lên giữa họ liên quan đến đạo đức, pháp hành, quan niệm và cách sống của vị tỳ khưu.
(iii) Tranh tụng liên quan đến tội- (Āpattādhikaraṇa) việc vi phạm bất cứ điều luật nào.
(iv) Tranh tụng liên quan nhiệm vụ (Kiccādhikaraṇa) - Chính thức họp Tăng và quyết định.
Để dàn xếp những sự tranh tụng như thế
thỉnh thoảng nổi lên giữa Tăng Đoàn, những phương pháp vắn tắt và chi
tiết được đề ra dưới bảy tiêu đề sau:
(i) Hành xử luật có sự hiện diện (Sammukhā Vinaya) - trước khi quyết định, tiến hành điều tra với sự hiện diện cả hai bên chiếu theo luật.
(ii) Hành xử bằng cách ghi nhớ (Sativinaya) -
Tăng tuyên bố sự vô tội của vị A la hán chống lại người buộc tội không
có bằng cớ, sau khi hỏi vị ấy liệu vị ấy có phạm tội hay không.
(iii) Hành xử luật khi không điên cuồng (Amūḷha Vinaya) - Tăng tuyên bố khi người bị buộc tội được biết là điên.
(iv) Về Phán xử tội đã thừa nhận (Patiññāta Karaṇa)- quyết định sau khi bên liên hệ đã chấp nhận.
(v) Thuận Theo Số Đông (Yebhuyyasika Kamma) - bằng cách bầu phiếu quyết định phiếu đa số.
(vi) Theo Tội Của Vị Ấy (Tassapāpiyasika Kamma) - Tăng quyết định khi người bị buộc tội chứng tỏ không thể tin, chỉ chối, tránh trả lời câu hỏi và nói láo.
(vii) Cách dùng cỏ che lấp (Tiṇavattharaka Kamma) -
miễn tất cả các tội ngoại trừ tội Bất Cọng Trụ, Tăng Tàn và những tội
liên hệ đến nam nữ cư sĩ, khi các bên tranh tụng được Tăng hoà giải.
(e) Những Điều Luật Của Tỳ Khưu Ni
Những chương kết thúc trong Ưng Đối Trị
dành cho những điều giới luật của Tỳ Khưu Ni. Danh sách những điều luật
của Tỳ Khưu Ni dài hơn của Tỳ Khưu Luật Tỳ Khưu Ni được kéo dài tương
đương với luật Tỳ Khưu Tăng, ngoại trừ hai điều luật Bất Định là không
được đặt ra cho Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.
Tỳ Khưu
|
Tỳ Khưu Ni
|
|
(1) Bất Cọng Trụ
(2) Tăng Tàn (3) Bất Định (4) Ưng Xả Đối Trị (5) Ưng Đối Trị (6) Ưng Phát Lồ (7) Ưng Học Pháp (8) Ổn Định Tranh Tụng |
4
13 2 30 92 4 75 7 |
8
17 - 30 166 8 75 7 |
Tổng cộng:
|
227
|
311
|
Tám phạm trù giới luật nầy dành cho
Giáo Hội Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni được đề cập chi tiết trong hai cuốn sách
đầu tiên của Tạng Luật. Mỗi luật đều có mỗi bản nói rõ nguyên nhân Đức
Phật đề ra điều luật nầy kèm theo lời sách tấn của ngài chấm dứt với câu
"Tội nầy không dẫn đến phát sanh đức tin trong những ai không được
thuyết phục trong Giáo Pháp, cũng chẳng tăng trưởng đức tin trong những
ai đã được thuyết phục." Sau lời sách tấn của Đức Phật ở luật đặc biệt,
tiếp theo là chú giải từng chữ về điều luật ấy.
3. Đại Phẩm (Mahāvagga Pāḷi).
Hai cuốn sách kế, đó là, Đại Phẩm là
cuốn thứ III và Tiểu Phẩm là cuốn thứ IV của Tạng Luật, đề cập đến những
vấn đề liên quan đến Tăng mà không được đề cập trong hai cuốn đầu.
Đại Phẩm, được chia thành mười phần được biết như Khandhakas,
mở đầu bằng lịch sử về Đức Phật đã Giác Ngộ Tối Thượng tại gốc cây Bồ
Đề, ngài khám phá ra Luật Duyên Khởi, ngài thuyết bài Kinh đầu tiên cho
Nhóm Năm Ẩn sĩ về việc khám phá ra Tứ Diệu Đế, đó là bài Kinh Chuyển
Pháp Luân. Tiếp theo bài nầy là bài Kinh Vô Ngã Tướng. Hai bài Kinh nầy
có thể được mô tả như bản Trích Yếu của Phật Pháp.
Phần đầu tiếp tục mô tả về tích chuyện
những thanh niên trong gia đình giàu có như Yasa tìm đến quy y ngài như
một vị Phật và theo giáo pháp của Ngài; về Đức Phật bắt đầu sứ mạng
hoằng truyền Giáo Pháp vô tiền khoáng hậu 'vì lợi ích và hạnh phúc của
nhiều người' khi ngài đã có được quanh ngài sáu mươi vị đệ tử - những
người đã an trú trong Pháp và trở thành A La Hán; ngài bắt đầu lập Tăng
Đoàn phục vụ như một ví dụ sống động của Chân Lý ngài thuyết giảng; và
những đệ tử nổi tiếng của ngài như Sāriputta, Moggallāna, Mahā Kassapa, Ānanda, Upāli, Angulimāla là thành viên của Tăng Đoàn. Sau đó cũng trong phần nầy là những điều luật cho việc chính thức được nhận vào Tăng Đoàn, Upasampadā,
cho những điều kiện rõ ràng chính xác phải thực hiện trước khi người
nào đó được sự chấp thuận của Tăng Đoàn và tiến trình được thi hành cho
mỗi người khi thọ cụ túc giới.
Đại Phẩm đề cập thêm tiến trình buổi lễ
Thọ Cụ Túc Giới, họp Tăng vào mỗi ngày rằm và mười bốn hay mười lăm
ngày trăng khuyết của âm lịch khi Biệt biệt Giải Thoát Giới (Pātimokkha), bản tóm tắt Tỳ Khưu, được tụng đọc. Sau đó có nhiều điều luật được thọ trì vào an cư mùa mưa (vassa) cũng như cho ngày lễ chính thức của Pavāranā (Tự
Tứ) kết thúc, trong đó một tỳ khưu mời chư huynh đệ phê bình liên quan
đến những gì được thấy, nghe hay nghi ngờ về phẩm hạnh của vị ấy.
Cũng có nhũng luật liên quan đến tỳ
khưu bệnh, dùng giày dép da và bàn ghế tủ giường, các vật dụng như y và
những thứ liên quan đến thuốc và thực phẩm. Một phần riêng biệt đề cập
đến lễ Dâng Y Kathina được tổ chức hằng năm để dâng cúng Y.
4. Tiểu Phẩm (Cūlavagga Pāḷi)
Tiểu Phẩm là cuốn sách thứ tư của Tạng
Luật đề cập đến nhiều điều luật hơn và những tiến trình đối với những
phận sự trong tự viện gọi là Sanghakamma. Mười hai phần trong
chương nầy liên quan đến những điều luật đối với những tội như Tăng Tàn
cần phải họp Tăng để giải quyết; những điều luật phải làm để chuộc tội
như Parivāsa và Mānatta và những qui luật để phục hồi địa
vị của một tỳ khưu. Cũng có những luật về tư cách liên quan đến tắm, vận
y, chỗ ở, đồ đạc và những qui luật liên quan đến việc cư xử với khách
Tăng, và bổn phận của giáo thọ sư và sa di. Vài điều luật quan trọng
được ban hành liên quan đến hành động chính thức chỉ trích của Tăng
chống lại những tỳ khưu gây rối, cãi lộn, tranh tụng, , những ai kết hợp
thân mật với gia đình và những ai nói lời khinh chê Phật, Pháp và Tăng (Tajjanīya Kamma); Ukkhepanīya Kamma, hành động chính thức Đình chỉ được dụng cho những ai phạm tội mà không muốn nhận tội; và Pakāsanīya Kamma
được sử dụng để công bố rằng "Những gì Devadatta làm bằng hành động hay
lời nói, nên được thấy như do tư ý Devadatta và không có gì liên quan
đến Phật, Pháp và Tăng." Bản nêu rõ nguyên nhân đưa đến hành động nầy có
kèm theo sự tích về Devadatta ba lần mưu toan sát hại Đức Phật và âm
mưu chia rẽ Tăng của Devadatta.
Trong phần mười có sự tích về Bà
Mahāpajāpati, dì mẫu của Đức Phật, thỉnh Tăng Đoàn nhận vào; Trước tiên
Đức Phật từ chối và cuối cùng ngài chấp nhận lời khẩn cầu mà Ānanda đã
thay mặt bà xin giúp.
Hai phần cuối mô tả những sự kiện lịch sử quan trọng, đó là tổ chức Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ I tại thành Rajāgaha (Vương Xá) đại hội kết tập lần thứ II tại Rừng Vesāli (Trúc Lâm).
5. Luật Tạng Tập Yếu (Parivāsa Pāḷi)
Luật Tạng Tập Yếu là cuốn thứ V và là
cuốn cuối của Luật Tạng phục vụ như một loại sách giáo khoa.. Nó được
biên soạn trong hình thức sách giáo lý vấn đáp, có thể làm cho người đọc
có một cái nhìn khái quát có phân tích về Tạng Luật. Tất cả những điều
luật, những hoạt động chính và những vấn đề khác của Luật được phân loại
dưới những phạm trù riêng theo chủ đề liên quan.
Luật Tạng Tập Yếu giải thích làm sao
những điều luật của Giáo Hội được rút ra để chỉnh đốn phẩm hạnh của tỳ
khưu cũng như những công việc hành chính của Giáo Hội. Những tiến trình
rõ ràng và chính xác được đặt ra để dàn xếp những vụ tranh tụng và xử lý
những vấn đề về luật, nhằm hình thành toà án Tăng Sự, gồm các vị tinh
thông giới luật (Vinayadhara), nghe và quyết định mọi loại tranh tụng liên quan đến tu sĩ hay tự viện.
Luật Tạng Tập Yếu cung cấp những nguyên tắc chung và hướng dẫn trong tinh thần mà nhờ đó nghi thức Sangha Vinicchaya được thực hiện nhằm ổn định những vụ tranh tụng liên quan đến tu sĩ hay tự viện.