VIỆT NAM PHẬT GIÁO
SỬ
LUẬN
Nguyễn Lang
---o0o---
TẬP I
CHƯƠNG III
KHỞI NGUYÊN CỦA THIỀN HỌC VIỆT NAM
KHƯƠNG TĂNG HỘI
Thiền học Việt Nam khởi đầu băng
Khương Tăng vào
đầu thế kỷ thứ ba. Không những Tăng Hội là sáng tổ của Thiền học
Việt Nam,
ông cũng còn phải được xem là ngời đầu tiên đem Thiền cho phát huy
ở Trung
Hoa nữa.
Cha Mẹ Tăng Hội là người nước Khương
Cư
(Sogdiane) cư trú tại Giao Chỉ để buôn bán. Tăng Hội chắc chắn là
sinh
trên đất Giao Chỉ; cha và mẹ ông mất năm ông lên mười tuổi. Không
biết ai
đã nuôi dạy Tăng Hội sau khi cha mẹ ông mất, chỉ biết rằng lớn lên
ông đi
xuất gia và tu học rất tinh tiến (Cao Tăng Truyện). Ta cũng
không
biết thầy ông là ai, và trong số mười vị tăng sĩ truyền giới cho
ông có vị
nào là tăng sĩ ngoại quốc không. Ta chỉ biết ông giỏi cả Phạn ngữ
lẫn Hán
tự. Trong các tác phẩm của ông ta thấy có tập Nê Hoàn Phạm Bối
là
một tập thi ca về đề tài niết bàn chuyển dịch từ những bài thi
tụng Phạn
ngữ. Lục Ðộ Tập Kinh của ông văn từ điển nhã, chứng tỏ Hán
văn ông
không thua gì người Trung Hoa thời ấy. Cố nhiên là sinh trưởng tại
Giao
Chỉ ông phải nói rất thạo tiếng nước ta.
Sách Cao Tăng Truyện nói rằng
ông đến
Kiến Nghiệp thủ đô nước Ngô (nay là Nam Kinh) vào năm Xích Ô thứ
mười, tức
là năm 247. Ông mất vào năm 280, niên hiệu Thái Khương nguyên niên
đời nhà
Tấn. Như vậy ông đã ở trên đất Trung Hoa 33 năm. Nhiều người cho
rằng ông
đã trước tác và dịch thuật tại đây, nhưng kỳ thực một phần quan
trọng của
công việc này đã được ông làm tại Giao Chỉ.
Trong bài tựa kinh An Ban Thủ Ý do
ông
viết, ta thấy có một chứng cớ tỏ rằng ông đã viết bài tựa này
trước năm
229, nghĩa là hồi ông còn hành đạo tại Giao Chỉ. Ðó là chi tiết An
Thế
Cao, người đã dịch kinh kinh An Ban Thủ Ý : “Có vị bồ tát
tên An
Thanh, tự là Thế Cao, con đích của vua An Tức, sau khi nhường ngôi
cho chú
lánh qua đất này, sau bèn về kinh sư...” Kinh sư ở đây là
Lạc
Dương, chính ở Lạc Dương mà An Thế Cao đã dịch nhiều kinh
vào hậu
bán thế kỷ thứ hai. Nếu bài tựa này viết sau năm 229, tức là năm
Ngô Tôn
Quyền xưng đế, thì kinh sư phải là Kiến Nghiệp chứ không
phải là
Lạc Dương nữa, Bởi vì sau ngày Ngô Tôn Quyền xưng đế, nước ta đã
nội thuộc
Ðông Ngô rồi mà không theo Bắc Ngụy.
Chi tiết quan trọng trên còn cho ta
một dữ kiện
lịch sử nữa: những cuốn kinh mà An Thế Cao dịch tại Lạc Dương đã
được mang
tới và lưu hành tại Giao Chỉ trong thời gian Tăng Hội hành đạo tại
đây.
Những kinh này ví dụ kinh kinh An Ban Thủ Ý, đã được mang
xuống do
những người Phật tử Lạc Dương tới tỵ nạn tại Giao Chỉ. Trong số
người Phật
tử này có cư sĩ Trần Tuệ, học trò của An Thế Cao, người mà
Tăng Hội
đã gặp và cùng cộng tác để chú sở kinh kinh An Ban Thủ Ý.
Ta có thể
nói rằng chính Trần Tuệ đã mang kinh này từ Lạc Dương xuống.
An Thế Cao tại Lạc Dương đã dịch một
số kinh về
thiền như kinh kinh An Ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập.
Những
kinh này thuộc về thiền nhưng có khuynh hướng tiểu thừa. Chính
Tăng Hội đã
giới thiệu kinh này theo tinh thần đại thừa. Chính ông đã soạn Lục
Ðộ
Tập Kinh và phát huy Thiền học trong tinh thần đại thừa.
Theo Khai Nguyên Thích Giáo Lục,
ông cũng
đã dịch Ngô Phẩm (tức Bát Thiên Tụng Bát Nhã hay
Ðạo Hành
Bát Nhã) là kinh bản xuất hiện sớm nhất trong số các kinh Bát
Nhã. Như
thế, Phật Giáo Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ ba hoàn toàn là Phật
Giáo đại
thừa, có khuynh hướng thần bí và Thiền học. Sự kiện Chi Cương
Lương
dịch kinh Pháp Hoa Tam Muội tại Giao Chỉ vào hạ bán thế kỷ
thứ ba
cũng xác định điều đó.
Ta không thể nào biết được hết những
tác phẩm
dịch thuật và sáng tác của Tăng Hội. Trong bản mục lục kinh điển
của Ðạo
An có một số dịch phẩm không mang tên dịch giả, nhưng trong những
bản mục
lục ra đời sau đó thì người ta lại gán những dịch phẩm kia cho An
Thế Cao.
Có thể trong số đó có những dịch phẩm của Tăng Hội. Những tác phẩm
mà ta
biết được có dính líu đến Tăng Hội được kê ra như sau:
1) An Ban Thủ Ý, An Thế Cao
dịch, Tăng
Hội và Trần Huệ chú sớ, Tăng Hội đề tựa.
2) Pháp Cảnh Kinh, An Huyền dịch, Tăng
Hội chú
sớ và đề tựa.
3) Ðạo Thọ Kinh, Chi Khiêm dịch, Tăng
Hội chú sớ
và đề tựa.
4) Lục Ðộ Yếu Mục, Tăng Hội biên tập
(không
còn).
5) Nê Hoàn Phạm Bối Tăng Hội biên tập
(không
còn).
6) Ngô Phẩm (Ðạo Hành Bồ Tát), Tăng
Hội dịch
(không còn).
7) Lục Ðộ Tập Kinh, Tăng Hội biên tập.
Những chú sớ của Tăng Hội trong ba
kinh kinh An
Ban Thủ Ý, Pháp cảnh và Ðạo Thọ nay không còn; bài tựa của kinh
Ðạo Thọ
cũng vậy; duy chỉ còn lại hai bài tựa của kinh kinh An Ban Thủ Ý
và kinh
Pháp Cảnh. Kinh kinh An Ban Thủ Ý dạy về phương pháp đếm hơi thở
và tập
trung thiền quán; tuy đó là một kinh thuộc tiểu thừa, nhưng Tăng
Hội đã
phô giải theo tinh thần đại thừa. Trong bài tựa kinh này, Tăng Hội
viết:
“An Ban tức là đại thừa của chư Phật để tế độ cho chúng sinh đang
phiêu
trầm sinh tử”.
Lục Ðộ Tập Kinh là một tác phẩm rất
đặc biệt.
Xét văn thể và nội dung, ta biết chắc chắn đây không phải là một
tác phẩm
dịch thuật từ Phạn ngữ mà là một tác phẩm sưu khảo biên tập trong
đó có
nhiều đoạn lược dịch từ nhiều kinh điển và có những đoạn hoàn toàn
do Tăng
Hội viết, ví như đoạn nói về thiền. Có cả thảy tám quyền, nói về
sáu độ
(độ tức là sự vượt qua bờ, chữ paramia): bố thí độ, giới độ, nhẫn
nhục độ,
thiền độ và Minh độ. Minh ở đây là trí tuệ. Ba quyển đầu nói về bố
thí độ,
còn các quyển sau, mỗi quyển nói về một độ trong các độ còn lại.
Về mỗi độ, có nhiều đoạn trích dịch
trong các
kinh. Ví dụ trong bố thí độ, có trích dịch cá kinh Ba La Nại Quốc
Vương,
Tát Hòa Ðàm Vương, Tu Ðại Noa, PhậtThuyết Tứ Tính...
Vai trò xướng minh Thiền học của Tăng
Hội ăn sâu
vào cả trong tuyền thuyết. Cao Tăng Truyện chép câu chuyện An Thế
Cao để
lại một bức cẩm nang, trong đó ông tiên đoán như sau: “Tôn Ngộ đạo
giả, cư
sĩ Trần Tuệ; truyền thiền kinh giả, tỷ kheo Tăng Hội”. Nghĩa là cư
sĩ Trần
Tuệ là người làm tôn giá trị đạo học của tôi, còn tỳ khưu Tăng Hội
là
người truyền dạy kinh thiền”. Câu chuyện này có thể cho ta một ý
niệm về
sự cộng tác của Tăng Hội và Trần Tuệ trong việc truyền bá thiền
pháp trước
tiên tại Giao Chỉ và sau đó ở miền Giang Tả. Trong bài tựa An Ban
Thủ Ý,
Tăng Hội viết: “Trần Tuệ chú giải, còn tôi giúp sửa chữa thêm bớt”
(Trần
Tuệ chú giải, dư trợ châm chước). Tăng Hội còn nói rằng những sửa
chữa đó
nằm trong tinh thần đạo học của An Thế Cao, ông không tự do thêm
vào những
điều trái với tinh thần này (phi sư bất truyền bất cảm tự do giả).
Nhưng
đây chẳng qua là lời khiêm nhường đối với thầy của người cộng tác
với
mình; trong công việc, thực ra Tăng Hội đã đại thừa hóa Thiền học
của An
Thế Cao. Cùng có mặt với Trần Tuệ lúc ấy, còn có hai người cư sĩ
khác,
cũng có thể là học trò của An Thế Cao; đó là Hàn Lâm và Bì Nghiệp.
Ta thấy
học trò của An Thế Cao đều là cư sĩ, kể cả An Huyền và Nghiêm Phù
Ðiều
(trong bài tựa An Ban Thủ Ý, Tăng Hội gọi ba cư sĩ Trần Tuệ, Hàn
Lâm và Bì
Nghiệp là tam hiền; trong bài tựa Pháp Cảnh, ông cũng gọi An Huyền
và
Nghiêm Phù Ðiều là nhị hiền; trong bài tựa Pháp Cảnh, ông cũng
gọi An
Huyền và Nghiêm Phù Ðiều là nhị hiền. Không biết sau này Nghiêm
Phù Ðiều
có được làm sa di không, bởi vì ông có viết cuốn Sa Di Thập Tuệ
Chương
Cú. Chắc chắn là Trần Tuệ có kể cho Tăng Hội về cách thức dịch
kinh ở Lạc
Dương, bởi vì Tăng Hội có nói trong bài tựa Pháp Cảnh là An Huyền
dịch
miệng và Nghiêm Phù Ðiều, vốn người Hán, chép lên giấy thành chữ.
Ðó là
trường hợp kinh Pháp Cảnh.
TƯ TƯỞNG THIỀN CỦA TĂNG HỘI
Danh từ thiền định ta thấy được
nhắc một
lần trong kinh Tứ Thập Nhị Chương ngay trong câu đầu. Những
người
trích dịch kinh này lại dùng những chữ có thể thay cho danh từ
thiền, như
danh từ “hành đạo” chẳng hạn. Kinh có nói “quán thiên địa,
niệm vô
thường”; đây là một phép thiền gọi là vô thường quán... Sách Lý
Hoặc
Luận của Mâu Tử không nói đến thiền, có lẽ vì sách này chú
trọng về
việc biện luân hơn kinh Tứ Thập Nhị Chương, một cuốn sách
gối đầu
gường của tăng sĩ. Sự có mặt của những cuốn kinh về thiền đem
xuống từ Lạc
Dương vào đầu thế kỷ thứ ba và cái học đại thừa của Tăng Hội đã là
những
yếu tố đẩy mạnh phong trào Thiền học.
Thiền học đối với Tăng Hội không phải
chỉ là
những phương pháp hành đạo mà còn có cả một căn bản triết học về
tâm học.
Trong bài tựa An Ban Thủ Ý Kinh, Tăng Hội nói: “Trong thời
gian
búng ngón tay, tâm ý ta có thể chuyển qua 960 lần chuyển niệm:
trong thời
gian một ngày một đêm, ta có thể trải qua 13 ức ý niệm. Dùng
phương pháp
đếm hơi thở... ta có thể khử bỏ 13 ức ý niệm không trong sach ấy”.
An Ban
tức làAnapana (An Na Ba Na), nghĩa là hơi thở, Thủ Ý là sự
nhiếp
tâm, định tâm. An Ban Thủ Ý tức là dùng phương pháp điều
khiển hơi
thở để điều phục tâm ý. Có sáu pháp gọi là lục diệu môn:
1) Sổ Tức Môn: điều phục thân
thể, đếm
hơi thở từ một đến mười, tập trung tâm tư vào sự đếm để trừ
diệt
loạn tâm, đi vào định.
2) Tùy Môn: theo dõi hơi thở, ý
thức được
trong từng giây sự ra vào của hơi thở. Bỏ con số mà theo hẳn hơi
thở.
3) Chỉ môn: bỏ sự theo dõi hơi
thở để
thực hiện sự ngưng lặng (chỉ)
4) Quán Môn: tuy là ở trong
định nhưng
tuệ giác chưa phát hiện. Phải quán về tâm, về ngũ ấm và những điểm
sai lạc
như ngã, ngã sở... để khơi mở tuệ giác.
5) Hoàn Môn: Xoay về quán sát
tự tâm để
phá trừ quan điểm nhị nguyên về chủ thể, quán sát đối tượng, phá
trừ ngã
chấp.
6) Tịnh Môn: Trạng thái vô phân
biệt chủ
thể và đối tượng kia vẫn chưa phải là chứng ngộ, hành giả không
nên vướng
mắc vào đó. Phải vượt thoát trạng thái này để trí tuệ chân minh
hoàn toàn
hiển lộ.
Tăng Hội định nghĩa tâm là
“không có
hình, không có tiếng, không có trước, không có sau, thâm diệu, vi
tế,
không có tóc tơ hình thức: Phạm Thiên, Ðế Thích và tiên thánh cũng
không
thấy rõ được; những hạt giống của tâm khi thì ẩn khi thì hiện, cái
này hóa
sinh thành cái kia, người phàm không thể thấy được; đó gọi là ấm”.
Chúng
sinh phiêu trầm vì tâm ấy bị lôi kéo theo lục tình và mười ba ức
uế niệm.
Lục tình gồm có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm (ý), gòi là nội
tình;
và sắc, thanh, hương, vị tế hoạt, (xúc) và tà niệm (pháp) tức là ngoại
tình. Những tà hạnh của lục tình nhiều như nước muôn sông chảy
về
biển, bất tận, do đó phương pháp an ban thủ ý là để đối phó lục
tình và
ngăn chặn tà hạnh. Tăng Hội nói tiếp “người hành giả đã chứng đắc
được
phép An Ban, thì tâm bừng sáng, dùng cái sáng ấy để quán chiếu thì
không
gì tối tăm mà không thấy ...” (tựa kinh An Ban Thủ Ý).
Quan trọng nhất là đoạn Tăng Hội viết
trong
Lục Ðộ Tập Kinh về Thiền. Ông nói về bốn trình tự của thiền
(tứ thiền)
như phương pháp để “chính tâm, nhất ý, tập trung điều thiện duy
trì trong
tâm, ý thức những ý niệm dơ bẩn để mà khử diệt”:
Phương Pháp Thực Hành Của Nhất
Thiền:
khử bỏ tham ái, ngũ yêu tà sự, như khi mắt thấy sắc đẹp tâm sinh
dâm
cuồng, khử bỏ những thanh, hương vị và xúc thường gây tai hại.
Người có
chí hành đạo ắt phải xa lánh chúng. Lại còn phải diệt trừ năm sự
ngân che:
sự tham dục, sự giận dữ, sự mê ngủ, sự dâm lạc và sự hối hận nghi
ngờ. Ðối
với những vấn đề như có đạo hay không có đạo, có Phật hay không có
Phật,
có kinh hay không có kinh... tâm ý đạt đến hiểu biết, trở nên
thanh tịnh
không dơ bẩn, tâm sáng thấy được chân lý, đạt tới trình độ không
gì là
không biết, các loài trời, rồng và quỷ mị không thể nào đánh lừa
được. Ðạt
được nhất thiền cũng như người có mười loại oán thù đã
thoát ly
thân thuộc, một mình ở trên núi chẳng ai hay biết, không còn sợ
ai. Vì xa
lìa được tính dục mà nội tâm vắng lặng.
Phương Pháp Nhị Thiền:
như người đã thoát ly oán thù tìm tới chốn thâm sơn để cư trú
nhưng còn sợ
oán thù có thể tìm tới, kẻ hành giả tuy đã xa mười thứ dục tình
nhưng còn
sợ những thứ này tìm theo để lung lạc chí hành đạo của mình. Vì
vậy kẻ
hành giả không nên vui cái vui đã dùng thiện để diệt ác, thiện
tiến thì
ác lui; bởi cái vui này là mầm của sự lo sợ. Phải diệt trừ
quan niệm
thiện ác chống nhau, do đó ý niệm vui và sợ đều tiêu diệt, mười
điều ác
tuyệt dứt, không còn ngoại duyên nào có thể tới xâm nhập tâm mình.
Cũng
như khi ở trên đỉnh núi cao thì không còn dòng nước nào có thể làm
cho
mình bị ngập lụt, cũng không sợ mưa và rồng làm cho chìm đắm.
Chính là từ
đỉnh núi đó mà các dòng suối lưu xuất; từ sự hành đạo này mà các
điều
thiện do tâm xuất hiện và điều ác không còn do đâu phát sinh được
nữa.
Phương Pháp Tam Thiền:
Giữ gìn tâm ý một cách kiên cố, cả thiện và ác cũng
đều
không thâm nhập được, tâm an ổn như núi Tu Di; từ bên trong thiện
cũng
không phát xuất mà từ bên ngoài thiện, ác và tịch diệt cũng
không
xâm nhập được[1].
Tâm như hoa sen, rễ hoa trong bùn, khi hoa chưa mọc thì còn bị lấp
dưới
nước. Người thực hành tam thiền thanh tịnh như hoa, lìa xa ác
niệm, cả
thân và tâm đều an ổn, để hướng về tứ thiền.
Phương Pháp Tứ Thiền:
Tới đây cả thiện và ác đều bỏ, tâm không nhớ ác; trong tâm yên và
sáng như
ngọc lưu ly; như nàng công chúa tự tắm gội và lấy hương thơm ướp
mình, mặc
xiêm y mới. Bồ Tát khi đã đạt được thứ thiền thì các loại tà cấu
không còn
làm hư tệ tâm minh... Ðạt được tứ thiền thì muốn gì cũng được, phi
hành
nhẹ nhàng trên không, đi dưới nước, phân tâm tán thể, biến hóa vạn
cách,
ra vào không ngăn cách, tồn vong tự do, có cả mặt trời, mặt trăng,
động
tới cả thiên địa, đắc nhất thiết trí...”
Mở đầu bài kinh An Ban Thủ Ý,
Tăng Hội đã
nói “An Ban là đại thừa của chư Phật để tế độ chúng sinh phiêu
trầm...:
Câu nói này đủ để chứng tỏ khuynh hướng đại thừa hóa Thiền
học của
Tăng Hội. Những chú giải của Tăng Hội về kinh An Ban Thủ Ý tuy
không còn nhưng cách thức biên tập Lục Ðộ Tập Kinh của Tăng
Hội
cũng cho ta thấy rõ ràng khuynh hướng ấy. Ta không biết Tăng Hội
đã học
Thiền học đại thừa với ai ở Giao Châu; sự gặp gỡ giữa Tăng Hội với
Trần
Tuệ không thể làm phát tinh thần đại thừa đó, bởi vì cư sĩ Trần
Tuệ cũng
như thầy của ông là An Thế Cao đều theo hệ thống thiền tiểu thừa.
Ta biết
Tăng Hội đã dịch Tiểu Phẩm Bát Nhã (tức là Ðạo Hành hay
Bát Thiên Tụng Bát Nhã), kinh căn bản và xuất hiện sớm nhất
của đại
thừa. Bản dịch này Khai Nguyên Thích Giáo Lục có nói tới,
tuy rằng
trong khi viết tựa cho kinh Ðạo Hành Bát Nhã, Ðạo An, Chi
Tuần và
Lương Võ Ðế, đều không nhắc gì tới. Ta có thể nói rằng vào thế kỷ
thứ hai
tại Giao Chỉ thế nào cũng có mặt những Tăng sĩ Ấn Ðộ đã mang đạo
Phật đại
thừa tới cùng những bản kinh đại thừa căn bản như Bát Thiên
Tụng Bát
Nhã. Trong kinh này các quan niệm không và chân
như
của đại thừa đã được diễn tả một cách đầy đủ và chu đáo. Thiền học
tại
Việt Nam do đó đã khởi nguyên bằng Thiền đại thừa, không phải là
Thiền
tiểu thừa như ở trung tâm Lạc Dương vậy.
Chính vì ảnh hưởng sâu đậm của giáo lý
không
và chân như của đại thừa mà Tăng Hội đã diễn tả về tâm
như sau trong bài kinh An Ban Thủ Ý: “Tâm không hình sắc,
không có
âm thanh, không có tiền hậu; tâm thâm sâu vi tế không tóc tơ hình
tướng,
cho nên Phạm Thiên, Ðế Thích và các tiên thánh khác cũng không thể
thấy
được; kẻ phàm tục không thể thấy được sự hóa sinh từ hình thức này
sang
hình thức khác của các chủng tử khi thì minh hiển khi thì trầm mặc
trong
tâm. Ðó gọi là “ấm”, vậy” (Tâm vô hình vô thanh, vô hậu tiền,
thâm vi
tế hảo, hình vô ti phát, Phạm Thích tiên thánh sở bất năng chiếu;
minh mặc
chủng tử, thử hóa sinh hồ bỉ, phi phàm sở đồ, vị chi ấm giả).
Danh từ
ấm ở đây có nghĩa là tích tụ, có thể là do dịch từ chữ skandha
mà
cũng có thể đã được dịch từ chữ alaya. Theo chúng tôi, đây
là dịch
từ chữ alaya (tạng thức) - bởi vì ở đây Tăng Hội đang đích thực
nói về
tâm mà nói về tâm mà không nói về năm sự tổ hợp tích tụ
gọi là
ngũ ấm (hay ngũ uẩn). Trong bài tựa kinh An Ban Thủ Ý, Tăng
Hội
nói: “Tâm ấy thâm sâu và vi diệu, không chút tóc tơ hình tướng cả
đến Phạm
Thiên, Ðế Thích và các bậc tiên thánh cũng không thấy rõ được sự
hóa sinh
của các hạt giống ẩn tàng trong ấy...” Danh từ “hạt giống” ở đây
cho ta
thấy ý niệm về thức Alaya như “nhất thiết chủng thức” (Sarva
Bijaka) đã có
trong tư tưởng Tăng Hội, và điều này làm cho ta chắc tin thêm ở
điều vừa
nói. Như vậy là Tăng Hội đã chịu ảnh hưởng không những tư tưởng
Bát Nhã mà
còn chịu ảnh hưởng tư tưởng duy thức nữa. Mà tư tưởng duy thức ở
thời này
chưa được hệ thống hóa: chính kinh Lăng Già (Lankavatara)
mà Bồ Ðề
Ðạt Ma trao cho Huệ Khả (vào khoảng đầu thế kỷ thứ sáu) cũng chỉ
mới xuất
hiện vào thế kỷ thứ tư.
Ta biết rằng Thiền đại thừa khác với
Thiền tiểu
thừa ở chỗ, Thiền đại thừa xem diệu tâm chân như là bản thể
của
giác ngộ. Tăng Hội đã thực sự khơi mở cho khơi mở cho Thiền học
đại thừa
bằng cách nói với tâm như uyên nguyên và chân như
của
vạn pháp.
CHI CƯƠNG LƯƠNG TIẾP
Cùng trong thế kỷ thứ ba, có một vị
tăng sĩ tên
Chi Cương Lương Tiếp (Kalasivi, dịch là Chính Vô Úy) đã
dịch kinh
Pháp Hoa Tam Muội (Saddharmasamadhi - sutra) ở Giao Châu
vào năm
255 hay 256.
Chi Lương Cương Tiếp, có khi viết là Chi
Lương Cương Lâu, là người nước Nhục Chi. Vài bản mục lục còn
nói tới
một người tên Cương Lương Lâu Chi (dịch là Chân Hỷ) đã dịch
nhiều
kinh tại Giao Châu; Paul Pelliot cho rằng hai người trên đây chỉ
là một,
và ông cho rằng tên Phạn ngữ của người này là Kalaruci (Toung
Pao,
1923). Ông còn dẫn chứng Phí Trường Phòng, rút trong Lịch
Ðại
Tam Bảo Ký, rằng Chi Cương Lương Tiếp cũng đã dịch kinh Thập
Nhị
Du. Sách Thiền Uyển Tập Anh chép tên ông là Chi Cương
Lương,
chắc có lẽ là vị sự thiếu sót qua nhiều kỳ sao chép hoặc ấn loát.
Bản dịch
kinh Pháp Hoa Tam Muội đã mất vào trước 730. Kinh này cũng
thuộc về
loại Thiền kinh đại thừa; chữ tam muội có nghĩa là định.
Kinh này nói đến một loại thiền định gọi là thiền định hoa sen,
trong ấy các quan niệm về pháp thân, huyễn hóa và không đã
được đề cập tới. Một bài kệ trong kinh ấy như sau:
“Trong pháp thân có tất cả các pháp
tất cả đều huyễn hóa biến hiện khi nổi
khi chìm
các pháp phiền não như dâm, nộ và si
thực ra đều
vô hình vô thể
cũng như các bọt bèo hiện trên mặt
nước
nên quan sát thân ta và mọi hiện tượng
như an trú nơi tịnh diệt vô hình
Chúng được thành lập do sự hội hợp và
ly tan
nếu phân biệt kỹ lưỡng, thì sẽ thấy rõ
bản tính
của chúng là không”.
Như thế Chi Cương Lương Tiếp
cũng thuộc
hệ phái Phật Giáo đại thừa và cũng có khuynh hướng Thiền học.
Ngoài Tăng
Hội và Chi Cương Lương Tiếp, trong thế kỷ thứ ba tại Giao Châu còn
có Ma
La Kỳ Vực (Marajivaka), nhưng ta không biết được tư tưởng Phật
giáo của vị
này thuộc hệ thống nào. Cao Tăng Truyện nới tới Ma La Kỳ
Vực như
một người có thể làm nhiều phép lạ, thì có thể ông này đã có
khuynh hướng
Mật Giáo. Cao Tăng Truyện chép: “Ma La Kỳ Vực, nguyên người
Tây
Trúc, đã vân du khắp các xứ văn minh và mọi rợ, không ở yên ở một
nơi nào.
Ngài có những hành động mà các đệ tử và tùy tùng không biết trước
được.
Ngài đi từ nước Tây Trúc đến nước Phù Nam, rồi dọc theo bờ biển,
ngài đến
Giao Châu về Quảng Châu. Nơi nào đi qua ngài đều làm phép lạ khiến
dân
chúng rất cảm phục. Khi đến sông Tương Dương, người lái đò thấy
ngài rách
rưới nên không cho ngài qua sông. Nhưng khi thuyền tới bến bên kia
người
ta thấy ngài đã đứng ở đó rồi. Vào cuối triều Huệ Ðế nhà Tấn
(290-306)
ngài đến Lạc Dương. Sau này khi có nhiều biến loạn, ngài bèn trở
về Tây
Trúc”. Sách Phật Tổ Lịch Ðại Thống Tải cũng nói “Năm Vĩnh
Bình thứ
tư (Tấn Huệ Ðế, 294 sau Tây Lịch) có vị sa môn Tây Trúc là Kỳ Vực
đến Lạc
Dương”.
ÐẠT MA ÐỀ BÀ VÀ HUỆ THẮNG
Hiện ta chưa tìm ra được tài liệu nào
nói về
Phật Giáo Việt Nam vào thế kỷ tiếp tức là thế kỷ thứ tư. Và vì thế
không
biết được tình trạng Thiền học trong thế kỷ này. nhưng Tục Cao
Tăng
Truyện có nói đến tên hai vị thiền sư ở Giao Châu vào thế kỷ
thứ năm:
Thiền sư Ðạt Ma Ðề Bà (Dharmadeva) và thiền sư Huệ Thắng.
Thiền sư Ðạt Ma Ðề Bà là người Ấn Ðộ, đã đến Giao Châu vào khoảng
giữa thế
kỷ thứ năm để giảng dạy về các phương pháp thực hành Thiền học.
Huệ Thắng
thiền sư là một trong những học trò những học trò của ông. Tục
Cao Tăng
Truyện viết: “Thích Huệ Thắng là người Giao Chỉ, ở chùa núi
Tiên Châu,
đã từng vân du khắp các miền sông núi, thung dung giải phóng, đọc
kinh
Pháp Hoa mỗi ngày tới một lần..., đã từng theo vị thiền sư
ngoại quốc
là Ðạt Ma Ðề Bà để học phương pháp quán hạnh về thiền, mỗi khi
nhập định
thì tới ngày mai mới xuất định. Lưu Tích ở Bành Thành khi
làm thái
thú ở Nam Hải có nghe nói đến đạo phong của ngài; lúc về nước
thỉnh ngài
cùng đi. Huệ Thắng thiền sư nhận lời. Khi về tới Bành Thành thì cư
trú tại
chùa U thê để chỉ bày chân thể mầu nhiệm. Ngài thường làm ra vẻ
như người
ngu ngốc, nhưng kẻ ở lâu dài với ngài thì rất kính trọng, nhất là
những
học giả về thiền thì rất khâm phục... Năm Vĩnh Minh thứ năm (487)
ngài dời
về ở Diên Hiền tịnh xá tại núi Khế Chung. Từ trẻ tới già, ngài vẫn
giữ một
tâm trinh chính; ngài mất trong khoảng niên hiệu Thiên Giám, tuổi
vừa bảy
mươi”.
Theo tài liệu trên, ta biết Huệ Thắng
chuyên về
kinh Pháp Hoa và thiền pháp đại thừa. Hẳn là Ðạt Ma Ðề Bà,
người
dạy ông về thiền, cũng là thiền sư đại thừa. Như ta thấy trong Tục
Cao
Tăng Truyện, Huệ Thắng trước khi dời về Diên Hiền tịnh xá vào
năm 487.
Ðạt Ma Ðề Bà như vậy đã sang Giao Châu vào khoảng trước thế kỷ thứ
năm, và
như thế là trước ngày Bồ Ðề Ðạt Ma sang Lương. Truyền Ðăng Lục
của
Ðạo Nguyên nói rằng Bồ Ðề Ðạt Ma sang Trung Hoa năm 520, và sau
khi không
thành công với Lương Vũ Ðế liền vượt sông sang Bắc Ngụy. Nhưng Tục
Cao
Tăng Truyện của Ðạo Tuyên lại viết: “ Bồ Ðề Ðạt Ma ban đầu lên
đất
nước Nam Việt thuộc Tống, cuối cùng vượt sông sang Ngụy”. (Sơ
liên Tống
cảnh Nam Việt, mạt hựu
tỷ độ chi
Ngụy). Chữ Nam Việt ở đây
có thể là
Giao Châu hồi bấy giờ, cũng thuộc Tống. Nhà Tống (420-447) tới
trước nhà
Tề (479-501). Nếu quả thực Bồ Ðề Ðạt Ma đến Nam Việt vào cuối đời
nhà Tống
thì có thể ông đã qua Lương đồng thời với lúc Ðạt Ma Ðề Bà qua
Giao Châu.
Có điều Bồ Ðề Ðạt Ma ở Trung Hoa trở nên rất nổi tiếng, trái lại
Ðạt Ma Ðề
Bà ở Giao Châu thì sử sách lại ít nói đến. Ðiều này có thể do hai
lý do:
lý do thứ nhất là sử liệu Việt Nam về thời Bắc thuộc vì binh hỏa
loạn lạc
đã không còn gì được giữ lại, thư tịch Trung Hoa cũng hầu như
không nói gì
về Giao Châu trong thời đại này; lý do thứ hai là vì Thiền học Nam
Phương
chú trọng hoàn toàn đến thực hành và có khuynh hướng thần bí, ít
chú trọng
về vấn đề ghi chép lịch sử và về sự phân tông lập phái, và nhân
vật Bồ Ðề
Ðạt Ma đã được thổi phồng lên một cách quá đáng.
Tăng Hội sang Nam Kinh vào giữa thế kỷ
thứ ba để
hoằng dương thiền pháp; vào giữa thế kỷ thứ tư tại Trung Hoa có
Ðạo An
cũng chú trọng về thiền pháp, và cũng như Tăng Hội, bắt đầu chú
thích
những kinh về thiền do An Thế Cao dịch như An Ban Thủ Ý. Và
cũng
như Tăng Hội, Ðạo An đã nghiên cứu kinh Bát Nhã và hướng
tới đại
thừa hóa Thiền học. Tiếp theo Ðạo An, vào cuối thế kỷ thứ và đầu
thế kỷ
thứ năm, có Huệ Viễn cũng rất chú trọng về Thiền học và sự sưu tâm
thiền
kinh. Khi Huệ Thắng từ Giao Châu sang, thì tại đất Nam Kinh có
nhiều phật
tử hâm mộ Thiền học rồi và chính những người này mới thấy rõ được
giá trị
của Huệ Thắng (Thiền học giả kính mỹ - Tục Cao Tăng Truyện).
Trong
lịch sử phát triển Thiền học tại Trung Quốc, Giao Châu đã trực
tiếp cống
hiến ít nhất là hai thiền sư, đó là Tăng Hội và Huệ Thắng vậy.
Ðồng thời với Huệ Thắng, Giao Châu còn
cống hiến
cho Trung Quốc một thiền sư lỗi lạc khác tên là Ðạo Thiền. Sách Tục
Cao
Tăng Truyện của Ðạo Tuyên cho biết thiền sư Ðạo Thiền người
Giao Chỉ,
xuất gia từ nhỏ, giữ giới rất tinh nghiêm. Ông là một người rất
thành
thực, được cả hai giới xuất gia và tại gia yêu mến. Ðạo Thiền đã
trụ trì
chùa Tiên Châu Sơn ở miền rừng núi, một miền có nhiều cọp dữ. Từ
khi thiền
sư tới hành đạo ở đây, nạn cọp bắt người được chấm dứt. Thiền sư
được mời
về Kim Lăng để dự đại hội về thiền và luật, đại hội do Cách Lăng
Vương nhà
Tề tổ chức, có không biết bao nhiêu vị cao đức bốn phương về dự.
Về tới
Kim Lăng, Ðạo Thiền đã chinh phục được tứ chúng bằng đạo đức và
cách giảng
dạy của mình. Vào đầu của niên hiệu Vĩnh Minh, thiền sư về trú trì
chùa
Vân Cứ Hạ ở núi Chung Sơn để giáo hóa. Thiền sư dạy rất đông giới
xuất gia
và đã sử dụng bộ luật Thập Tụng của phái Thuyết nhất Thiết
Hữu Bộ
(Sarvastivada) để dạy giới này. Sách Tục Cao Tăng Truyện
viết:
“Thầy có nghệ thuật tóm tắt đại ý các kinh điển danh tiếng, làm
cho các
giới xuất gia nam và nữ phát khởi niềm tin và làm theo, vì vậy uy
danh của
thầy càng lúc càng chấn phát. {..} Người tới nghe giảng có tới
hàng trăm.
Người xin quy y thọ giới có trên cả ngàn. “Thiền sư sống giản dị,
ưa đạm
bạc, tránh chốn ồn ào, vui cảnh thanh tịnh. Tuổi già thiền sư đi
ẩn cư
miền rừng núi, từ chối không giao du với các bậc quyền quý cao
sang, làm
cho những người này buồn. Thiền sư tịch năm 70 tuổi, năm Ðại Thông
thứ
nhất, tức năm 527. Vậy thì thiền sư đã sinh ở Giao Chỉ vào năm
457. Ta có
thể nói Ðạo Thiền là một thiền sư chuyên về Luật Học, và ở Giao
Châu, thầy
đã sử dụng luật Thập Tụng của Hữu Bộ, không như ngày
naty
chúng ta sử dụng luật Tứ Phần của Pháp Tạng Bộ.Từ
Thông Biện
thiền sư đời Lý cho đến nay, chúng ta có khuynh hướng cho rằng
Thiền học
là từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam, lần đầu tiên do thiền sư Tỳ
Ni Ða Lưu
Chi, học trò của Tăng Xán, tổ thứ ba của Thiền tông Trung Hoa, vào
hạ bán
thế kỷ thứ sáu. Thực ra, Thiền học Việt Nam đã khởi đầu từ thế kỷ
thứ ba,
và chính Tăng Hội của Giao Châu đã sang truyền bá thuyền pháp tại
Trung
Hoa. Tiếp theo Tăng Hội đã có Huệ Thắng vào thế kỷ thứ năm được
một vị
thái thú mời về Trung Hoa hoằng dương Thiền học. Khi Tỳ Ni Ða Lưu
Chi
thiền sư Trung Hoa sang Việt Nam, ông đã cư trú tại chùa Pháp Vân;
chùa
này cũng đã là một thiền viện rồi trước khi ông tới. Thiền Uyển
Tập Anh
cho biết, trước khi Tỳ Ni Ða Lưu Chi tới, tại đây có thiền sư Quán
Duyên
đang giảng dạy về thiền pháp cho nhiều đệ tử trong đó có Pháp
Hiền: “Thiền
sư Pháp Hiền quê ở Châu Diên, họ Ðỗ, thân cao bảy thước ba phân
(thước cũ)
ban đầu học theo Quán Duyên đại sư, thọ cụ túc giới, ngày nay cùng
các đệ
tử của Ngài nghe giảng về những yếu pháp của thiền”. Những sự kiện
trên đủ
để cho ta thấy rằng Thiền học Việt Nam ban đầu không phải từ Trung
Hoa
truyền sang. Sống bên cạnh một nước láng giềng to lớn có nền văn
hóa giàu
thịnh, người Việt nhất là trong và sau những thời đại nội thuộc,
thường
hay có những mặc cảm là những gì truyền từ Trung Quốc mới quý..
các thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường sau này đều có
nguồn
gốc ở Trung Hoa, nhưng không phải vì lý do đó mà ta có thể nói
rằng thiền
pháp tại Việt Nam hoàn toàn do từ Trung Hoa truyền sang vậy.
VAI TRÒ QUAN TRỌNG CỦA TĂNG HỘI TẠI KIẾN NGHIỆP
Ở đây ta cần ghi nhận vai trò quan
trọng của
Tăng Hội ở Kiến Nghiệp vào giữa thế kỷ thứ ba.
Trước khi Tăng Hội đến hoằng dương
thiền học tại
miền hạ lưu sông Dương Tử, đã có một người cư sĩ tên là Chi Khiêm
đến đây
và dịch một số kinh điển như Duy Ma, Ðại Bát Nê Hoàn, Pháp Cú, Bồ
Tát Liên
Cú, Thoại Ứng Bổn Khởi và Liểu Bản Sinh Tử. Cao Tăng Truyện, trong
đoạn
nói về Tăng Hội, cho biết rằng tại đất Ðông Ngô, ngoài sự có mặt
của vị cư
sĩ này, Phật giáo chưa có cơ sở gì đáng kể. Chi Khiêm người gốc
Nhục Chi,
thông hiểu cả Phạn ngữ lẫn Hán ngữ, là một trong những người ở
miền Bắc
chạy loạn xuống Ðông Ngô. Cao Tăng Truyện cũng cho biết là Tăng
Hội là vị
sa môn đầu tiên xuất hiện ở đất này, khiến cho người ta rất nghi
và chính
Ngô vương Tôn Quyền cũng đưa ra nhiều thử thách trước khi tin phục
Tăng
Hội. Người nối nghiệp Tôn Quyền là Tôn Hạo (264-280) ban đầu cũng
không
tôn phục Tăng Hội, Nhờ đức độ tài năng của Tăng Hội, Tôn Hạo mới
chuyển
hóa và sau đó mới chịu thọ ngũ giới. Cũng sách này cho biết Tăng
Hội đã
lập ngôi chùa đầu tiên ở xứ này và vì vậy ngôi chùa được gọi là
Kiến Sơ
Tự. Ðây là một tập sách về các vị cao tăng viết vào khoảng đầu thế
kỷ thứ
sáu và vì vậy không xa với thời đại Tăng Hội bao nhiêu. Chính sách
này đã
viết rằng, sau khi Tăng Hội đến, “đại pháp trở nên hưng thịnh ở
Giang
Nam”. Nên để ý là danh từ tự để dùng cho các ngôi chùa thờ Phật đã
không
được dùng ở Giao Châu vào thời Tăng Hội. Trong bài tựa kinh Pháp
Cảnh,
Tăng Hội đã dùng chữ miếu đường để nói về ngôi chùa. Trong Lục Ðộ
Tập
Kinh, ông dùng chữ tông miếu để chỉ cho chùa (khi nói đến tội lỗi
của
những kẻ báng Phật, loạn hiền và ăn cướp những đồ vật trong chùa –
thủ
tông miếu vật).
Cao Tăng Truyện cho biết Tăng Hội là
một người
thông minh xuất chúng: “Hiểu rõ ba tạng kinh điển, đọc khắp cả sáu
kinh
(Nho, Lão), những sách về thiên văn và đồ vĩ phần lớn ông đều
thông thạo”.
Ðiều này làm ta nhớ đến Mâu Tử. Giao Châu hồi đó là một trung tâm
văn hóa
thực sự với sự có mặt của nhiều nhân vật lỗi lạc từ phương Bắc tới
(Mâu Tử
gọi là dị nhân Bắc Phương), sự học vấn cũng như sự hành đạo tại
địa phương
cố nhiên đòi hỏi những kiến thức về cả hai nền học thuật đang gặp
gỡ trên
đất
Việt. Trong những trước tác và dịch thuật, Tăng Hội không còn dùng những dẫn chứng và luận lý của Nho và Lão như Mâu Tử nữa; văn ông đã thuần túy Phật giáo. Tuy nhiên khi biện luận về đạo Phật với Tôn Hạo (người kế vị với Tôn Quyền) ông đã trích dẫn Kinh Dịch, Chu Công và Khổng Tử (Cao Tăng Truyện nói trong khi đàm luận với Tôn Hạo ông đã trích câu “tích thiện chi gia, tất hữu dư khương”). Nhìn vào sự nghiệp Tăng Hội tại Ðông Ngô, ta có thể có một ý niệm về tầm quan trọng của trung tâm Phật Giáo Giao Châu, nơi đã đào tạo nên Tăng Hội. Sự gặp gỡ của hai nền văn hóa tại Giao Chỉ quả đã biến đất này thành một bàn đạp cho sự truyền bá đạo Phật vào lục địa Trung Hoa.
Việt. Trong những trước tác và dịch thuật, Tăng Hội không còn dùng những dẫn chứng và luận lý của Nho và Lão như Mâu Tử nữa; văn ông đã thuần túy Phật giáo. Tuy nhiên khi biện luận về đạo Phật với Tôn Hạo (người kế vị với Tôn Quyền) ông đã trích dẫn Kinh Dịch, Chu Công và Khổng Tử (Cao Tăng Truyện nói trong khi đàm luận với Tôn Hạo ông đã trích câu “tích thiện chi gia, tất hữu dư khương”). Nhìn vào sự nghiệp Tăng Hội tại Ðông Ngô, ta có thể có một ý niệm về tầm quan trọng của trung tâm Phật Giáo Giao Châu, nơi đã đào tạo nên Tăng Hội. Sự gặp gỡ của hai nền văn hóa tại Giao Chỉ quả đã biến đất này thành một bàn đạp cho sự truyền bá đạo Phật vào lục địa Trung Hoa.
TỰA KINH AN BAN THỦ Ý
Thầy Tăng Hội viết bằng Hán
văn.
Nguyễn Lang dịch.
An Ban là đại thừa của các vị Bụt dùng
để tế độ
chúng sanh đang lênh đênh chìm nổi. An Ban gồm sau loại, nhằm đối
trị sáu
tính. Tính có trong và ngoài: sáu tinh bên trong là mắt tai mũi
lưỡi thân
ý, sáu tính bên ngoài là sắc thanh hương vị xúc và tà niệm. Kinh
có nói
đến 12 sự nguy hiểm của biển cả, đó là những tà hạnh xảy ra giữa
sự tiếp
xúc sáu tính bên trong và sáu tính bên ngoài.
Tâm chúng sanh bị tà niệm đi vào như
biển cả
tiếp nhận nước từ các dòng sông, như một kẻ đói ăn hoài mà không
no. Tâm
chứa đầy mọi thứ, không một pháp vi tế nào mà tâm không tiếp nhận.
Hiện
tượng ra vào qua lại của tâm lý xẩy ra như chớp nhoáng, không lúc
nào gián
đoạn.
Ta không thấy được tâm vì nó không có
hình
tướng, ta không nghe được tâm vì nó không có âm thanh; đi ngược
lại để tìm
thì không gặp bởi vì tâm không có khởi điểm, đi xuôi về để kiếm
cũng không
thấy bởi vì tâm không có chung kết. Tâm ấy thâm sâu và vi diệu,
không chút
tóc tơ hình tướng cả đến Phạm Thiên, Ðế Thích và các bậc tiên
thánh cũng
không thấy rõ được sự hóa sinh của các hạt giống ẩn tàng trong ấy,
huống
hồ là kẻ phàm tục. Cũng vì thế tâm cũng được gọi là ấm (ngăn che).
Cũng
giống như một người gieo hạt trong lúc trời sẩm tối; một nắm tay
đưa lên
thì hàng vạn hạt được gieo xuống. Người đứng bên không thấy được
hình dáng
những hạt giống ấy, và chính người gieo cũng không sao biết được
số lượng
của những hạt kia. Một nắm hạt gieo xuống, hàng vạn cây con sẽ mọc
lên.
Cũng như thế, trong thời gian một cái búng tay, tâm có thể trải
qua tới
960 lần chuyển niệm. Trong thời gian một ngày đêm, tâm có thể trải
qua
mười ba ức ý niệm mà ta không biết được, cũng giống hệt như người
gieo hạt
kia. Vì vậy nên ta phải thực tập lắng lòng, buộc ý vào hơi thở và
đếm từ
một tới mười. Trong thời gian mười hơi thở ấy, mà đếm không lộn là
ý bắt
đầu có định. Ðịnh nhỏ thì có thể kéo dài trong ba ngày, định lớn 7
ngày.
Trong thời gian ấy không có một tư tưởng tạp loạn chen vào, hành
giả ngồi
yên như người đã chết, đó gọi là sơ thiền.
Thiền có nghĩa là loại trừ. Loại trừ
cái tâm có
mười ba ức uế niệm để đạt tới tám pháp: sổ, định, chuyển, niệm,
trước,
tùy, xúc và trừ (đếm tập trung, đổi, nhớ, gắn, vào, theo, chạm và
loại
trừ). Tám pháp này đại khái được chia làm hai phần. Tâm ý sở dĩ
định được
là nhờ theo dõi hơi thở (tùy). Mà muốn theo dõi được hơi thở dễ
dàng thì
ta nên thực tập phép đếm hơi thở (sổ). Khi cấu uế đã được tiêu
diệt thì
tâm ý dần dần trong sạch. Ðó gọi là nhị thiền. Bỏ phép đếm đi, chú
tâm và
chóp mũi gọi là chỉ. Thành công thì các thứ cấu uế của ba chất
độc, bốn sự
rong ruổi, năm sự ngăn che và sáu đường ám muội đều được tiêu
diệt. Lúc
bấy giờ, tâm tư bừng sáng, còn sáng hơn cả hạt châu minh nguyệt.
Những tâm
niệm dâm tà và ô nhiễm như bùn nhơ bám vào tấm kính sáng đều được
gột
sạch. Tấm kính này giờ đây đặt trên mặt đất và ngữa lên trời, thì
không có
cõi nào mà không chiếu tới. Trời đất rộng lớn vô cùng nhưng tấm
kính vẫn
có thể thu nhiếp tất cả. Tâm ta bị các thứ uế cấu bao phủ như tấm
kính lấm
bùn kia, nếu gặp được minh sư trau chuốt dũa mài và lau sạch hết
mọi đất
bùn và bụi bặm thì khi đem tâm ấy ra soi chiếu, không tơ hào nào
là không
hiện rõ trên mặt kính. Cáu bẩn không còn thì ánh sáng hiện ra. Ðó
là
chuyện tất nhiên. Ngược lại, nếu phiền não tràn ngập mà tâm ý tán
loạn thì
trong số một vạn niệm được khởi lên ta không nhận biết được một
niệm. Cũng
giống như ngồi ngoài chợ mà nghe lao xao một lần bao nhiêu tiếng
ồn ào rồi
trở về ngồi yên mà cố nhớ lại thì không thể nhưng hứo được một lời
nào.
Sở dĩ tâm phóng dật và ý tán loạn vì
uế trược
chưa được khai thông. Nếu tìm về chỗ thanh vắng để thực tâm cho
tâm lắng
đọng và ý không còn bị những dục tà dục lôi kéo thì lúc ấy lắng
tai ta ta
có thể nghe rõ được cả vạn lời, không có một lời nào được bỏ sót.
Tâm tĩnh
và ý trong thì có thể làm được như vậy.
Thực tập sự vắng lặng và làm ngưng chỉ
tâm ý ở
đầu chóp mũi, đó gọi là tam thiền. Quay trở về để quán chiếu thân
mình, từ
đầu tới chân, ta gặp lại sự quan sát những yếu tố ô nhiễm trong cơ
thể và
thấy được rõ ràng mọi lỗ chân lông dày đặc trong toàn thân và chất
loãng
rịn ra từ các lỗ chân lông ấy. Từ đấy ta có thể quán chiếu được cả
trời,
đất, người và vật, tất cả những thịnh suy của các hiện tượng ấy và
ta sẽ
được tính cách không còn mất của chúng. Lúc ấy niềm vui nơi tam
bảo trở
nên vững chãi. Bây giờ tất cả những gì u tối đều trở nên trong
sáng, đó
gọi là tứ thiền.
Nhiếp tâm để trở về chánh niệm thì mọi
sự ngăn
che đều tiêu diệt, đó gọi là hòan (trở về). Khi những đam mê và
cấu uế đã
lắng xuống hoàn toàn thì tâm không còn vọng tưởng, đó gọi là tịnh.
Hành
giả đã thành tựu được pháp An Ban là thấy tâm mình sáng ra. Lấy
cái sáng
mà quán chiếu thì không có chỗ tối tăm nào mà không soi tới. Người
ấy có
thể thấy được những sự gì đã xảy ra từ vô số kiếp về trước và cũng
có thể
thấy được các cảnh giới trong hiện tại cùng với người và vật trong
cảnh
giới ấy, trong đó có các vị Bụt đang giáo hóa các giới đệ tử đang
học hỏi
và thực tập. Lúc bấy giờ không cảnh nào mà không thấy, không tiếng
nào mà
không nghe, người ấy đạt tới cái tự do lớn, không còn bị ràng buộc
bởi ý
niệm còn, mất, thấy được cái vô cùng lớn như núi Tu Di trong cái
vô cùng
nhỏ như lỗ chân lông, chế ngự được trời đất, làm chủ được thọ
mạng. Thần
lực bấy giờ trở nên dũng mãnh, người ấy có thể đánh bại cả thiên
binh
chuyển động được thế giới tam thiên, xê dịch được muôn ngàn cõi
nước, thể
nhập được vào cõi bất tư nghị, nang lực này đến cả Phạm Thiên cũng
không
lường được. Thần đức của người ấy trở nên không hạn lượng, chỉ vì
người ấy
đã thực hành được sáu hạnh (ba la mật) vậy. Trước khi Bụt thuyết
kinh này,
hai cõi nhân thiên đều chấn động và thay đổi màu sắc. Suốt trong
ba ngày
Bụt an trú trong an ban, không ai được tiếp xúc với Người. Rồi Bụt
hóa
hiện làm hai thân, một là báo thân, một là ứng thân để diễn bày
chân
nghĩa. Các vị đại sĩ và thượng nhân trong giới sáu đôi và mười hai
hạng,
không ai là không chấp hành theo lời Bụt dạy.
Có vị bồ tát tên là An Thanh hiệu là
Thế Cao,
con đích của vua nước An Tức, sau khi nhường ngôi cho chú đã lánh
sang
nước này, sau khi chu du nhiều nơi mới về đến kinh sư. Là người
học rộng
biết nhiều, uyên bác trong mọi lĩnh vực, ngài có kiiến thức giàu
về bảy
môn học đương thời. Những thuật phong khí, những điềm lành dữ,
những thiên
tai như núi dời đất động, những y thuật như thấy mặt biết bệnh,
ngài đều
nắm vững. Ngài lại biết được âm thanh của các loài chim thú và ôm
được vào
lòng cả sự rộng rãi của âm dương. Thấy lê dân sống trong mờ tối,
ngài cảm
thấy xót thương, muốn mở rộng tầm thấy nghe của họ, để giúp cho họ
thấy
cho rõ, nghe cho thông, cho nên đã vì họ mà giảng bày con được lục
độ chân
chánh, và phiên dịch pho bí áo An Ban Thủ Ý này. Không ai học theo
với
ngài mà không khử bỏ được uế trược vô minh và đạt tới mức sống
sáng tỏ và
trong sạch.
Tăng Hội tôi, sinh ra mới tới tuổi vác
nổi bó
củi thì cha mẹ đã qua đời. Bậc tam sư cũng theo nhau khuất núi.
Mỗi khi
ngước nhìn mây trời thường không khỏi cảm thấy xúc động, buồn
thương rơi
lệ. May thay, nhờ phước duyên kiếp xưa chưa hết nên đã may mắn gặp
được ba
vị hiền giả là Hàn Lâm người Nam Dương, Bì Nghiệp người Dĩnh Xuyên
và Trần
Tuệ người Hội Khế. Cả ba đều có niềm tin vững chãi, chí đức cao
siêu, cả
ba đều tinh cần đi tới trên con đường phục vụ đạo pháp, không biết
mệt mõi
là gì. Từ lúc có dịp thân cận và đàm đạo với ba vị, tôi nhận ra
rằng giữa
chúng tôi, lề lối làm việc và tâm ý phối hợp nhau một cách hoàn
toàn,
không có chỗ nào mâu thuẩn. Cư sĩ Trần Tuệ làm việc chú giải và
thích
nghĩa còn tôi thì giúp đỡ bằng cách gạn lọc, thêm chỗ này, bớt chỗ
kia.
Tuy nhiên những điều màđại sư không truyền thừa thì chúng tôi
không dám tự
do thêm thắt. Nói bao nhiêu cũng không cạn được ý Bụt, vì vậy
chúng tôi
kính mời các bậc hiền giả minh triết cùng nhau tham cứu. Hễ thấy
có điềm
nào còn sơ sót, xin vui lòng bổ chính để cùng nhau làm sáng tỏ
thêm ra
chánh lý của Bụt.
[1]
Tịch diệt ở đây có nghĩa là niết
bàn