VIỆT NAM PHẬT GIÁO
SỬ
LUẬN
Nguyễn Lang
---o0o---
TẬP I
CHƯƠNG VII
THIỀN PHÁI THẢO ÐƯỜNG
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân chinh
phạt
Chiêm Thành, chiếm các châu Ðịa Lý (phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng
Bình), Ma
Linh (các huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị) và chiếm Bố Chính (các
huyện
Bình Chánh, Minh Chánh, và Bố Trạch thuộc Quảng Bình). Sách An
Nam Chí
Lược của Lê Tắc nói rằng trong số những tù nhân bắt được của
Chiêm
Thành trong cuộc chinh phạt ấy, có một vị thiền sư Trung Hoa tên
là Thảo
Ðường. Vị thiền sư bị bắt cùng với những người Chiêm Thành và
chẳng ai
biết là thiền sư. Khi về tới kinh đô, vua chia những tù nhân bắt
được cho
các quan để làm người phục dịch. Tình cờ thiền sư Thảo Ðường được
chia cho
một người tăng lục, một chức vụ trong coi về tăng sự. Một hôm,
trong lúc
tăng lục đi vắng, tên nô bộc Thảo Ðường lật xem thử những bản ngữ
lục
Thiền học chép tay để trên bàn của chủ. Thấy bản này chép có nhiều
chỗ sai
quá, Thảo Ðường không chịu được, bèn cầm bút sửa chữa. Khi vị tăng
lục về,
khám phá ra câu chuyện ấy, rất lấy làm ngạc nhiên, bèn đem tự sự
tâu lên
vua. Vua cho vời tên nô bộc kỳ lạ ấy lên hỏi, thì biết đó là thiền
sư Thảo
Ðường ở Trung Hoa, nhân đi qua Chiêm Thành truyền giáo mà bị bắt.
Khâm
phục về sức học và đạo đức của Thảo Ðường, vua liền phong thiền sư
làm
quốc sư. Thiền học của Thảo Ðường có những giác sắc mới lạ, do đó
một
thiền phái nữa được thành lập, lấy tên là thiền phái Thảo Ðường.
Thiền sư
Thảo Ðường trụ trì tại chùa Khai Quốc, ngay ở kinh thành Thăng
Long.
Sách
Thuyền Uyển Tập Anh có ghi rằng thiền sư Thảo Ðường thuộc
truyền thống
của thiền sư Tuyết Ðậu Minh Giác ở Trung Hoa. Thiền sư Tuyết Ðậu
Minh tịch
năm 1052, trong khi thiền sư Thảo Ðường được phong quốc sư ở Ðại
Việt vào
năm 1069, ta có thể nói Thảo Ðường là đệ tử của Tuyết Ðậu, và là
anh em
đồng sư với các thiền sư Nghĩa Hòa, Trí Phúc và Truyền Tông.
Thiền sư
Tuyết Ðậu thuộc về hệ thống thiền phái Vân Môn: Ông được xem như
là người
phục hưng thiền phái Vân Môn. Ông là người Tứ Xuyên, họ Lý, rất
giỏi văn
chương, đi xuất gia với thiền sư Quang Tộ, nhờ một cây gậy của
thầy khai
ngộ. Ông ở bên thầy năm năm, trú tại núi Linh Ẩn ba năm nữa, rồi
về chùa
Tư Khánh ở núi Tuyết Ðậu, mở trường dạy học. Vua Tống ban hiệu cho
ôn glà
Minh Giác đại sư. Ông tịch năm 73 tuổi. Trong lúc sinh thời thiền
sư có
rút tinh yếu từ 1.700 cổ tắc trong bộ Cảnh Ðức Truyền Ðăng Lục,
làm
ra 100 bài tụng cổ, trong ấy có đủ các lời thăng tòa, thuyết
pháp, pháp
ngữ, niêm hương, những cơ duyên truyền đăng và những
câu thâm
thúy trích trong kinh điển. Sau này Viên Ngộ thiền sư đã thêm vào
tác phẩm
này các lời thùy thị, trước ngưõ và bình xướng, tạo
thành
tác phẩm Bích Nham Tập, một tác phẩm trọng yếu trong thiền
môn, xưa
nay được coi là quyển sách qúy nhất của tông phái thiền (tông môn
đệ nhất
thư). Sau khi thiền sư mất, các đệ tử thu góp lại những ngữ cú,
thi ca và
kệ tụng của ngài làm thành các tác phẩm Ðộng Ðình Ngữ Lục,
Tuyết Ðậu
Khai Ðường Lục, Bộc Truyền Tập, Tổ Anh Tập, Tụng Cổ Tập, Niêm
Hương
Tập, và Tuyết Ðậu Hậu Lục.
Một đặc
điểm của phái Tuyết Ðậu là chủ trương sự dung hợp giữa Phật giáo
và Nho
giáo; đặc điểm này đã ảnh hưởng nhiều tới Phật giáo và Nho giáo:
đặc điểm
này đã làm ảnh hưởng nhiều tới Phật giáo đời Trần ở Việt Nam, như
ta sẽ
thấy. Vân Môn và Tuyết Ðậu đều là những thiền sư bác học và có
khuynh
hướng văn học: cả hai người đều nhằm tới hoằng dương Thiền học
trong giới
trí thức, đưa nho gia đến gần đạo Phật và trở nên Phật tử. Chính
khuynh
hướng Nho Phật tổng hợp này đã thống trị tư tưởng Trung Hoa trong
buổi đầu
nhà Tống: đây là giai đoạn thịnh hành cực độ của thiền phái Vân
Môn tịa
Trung Hoa. Cũng vì quá thiên trọng về giới thượng lưu trí thức nên
những
tín ngưỡng Phật giáo bình dân (như ở đời đường) bị bỏ rơi và thiếu
sót
trong thiền phái Vân Môn. Ta không biết thiền sư Thảo Ðường có dự
phần
trong việc biên tập các bộ ngữ lục của thiền sư Tuyết Ðậu hay
không; ta
chỉ biết khi hành đạo ở Ðại Việt, ông đã sử dụng Tuyết Ðậu Ngữ
Lục.
Rất có thể Thảo Ðường là pháp hiệu của một trong những đệ tử của
Tuyết Ðậu
đã dự phân biên tập các bộ ngữ lục. Những vị ấy, như ta biết,là
Duy Ích,
Văn Chẩn, Viên Ứng, Văn Chính, Viễn Trần và Tử Hoàn.
Thiền sư
Thảo Ðường cố nhiên đã giảng Tuyêt Ðậu Ngữ Lục nhiều lần
tại chùa
Khai Quốc, khuynh hướng thiền học trí thức và thi ca đã từ đó ảnh
hưởng
đến hai thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thiền sư
Minh
Trí (mất 1190) của phái Vô Ngôn Thông và thiền sư Chân Không (mất
1100)
của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi là những người đã chịu ảnh hưởng nhiều
về khuynh
hướng thiền học trí thức và thi ca của phái Tuyết đậu. Sau này
thiền phái
Trúc Lâm của đời Trần còn tiếp tục chịu ảnh hưởng này.
Sách
Thuyền Uyển Tập Anh có ghi ten tuổi 19 người thuộc thiền phái
Thảo
Ðường, kể cả thiền sư Thảo Ðường, phân làm sáu thế hệ:
Thế
hệ 1: Thảo đường
Thế
hệ 2: ba người: Lý Thánh Tông, Bát Nhã, Ngộ Xá
Thế
hệ 3: bốn người: Ngô Ích, Thiệu Minh, Không Lộ, Ðịnh Giác
Thế
hệ 4: bốn người: Ðỗ Vũ, Phạm Âm, Lý Anh Tông, Ðỗ Ðô
Thế
hệ 5: ba người: Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Ðỗ Thường
Thế hệ 6: bốn người: Hải Tịnh, Lý Cao Tông, Nguyễn Thức,
Phạm Phụng
Ngự.
Vì
khuynh hướng thiên trọng trí thức và văn chương của nó, thiền phái
Thảo
Ðường không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một
số trí
thức có khuynh hướng văn học. Trong số 19 người thuộc thiền phái
Thảo
Ðường được ghi chép ở sách Thuyền Uyển Tập Anh, ta thấy chỉ
có 10
vị là người xuất gia, kể cả Thảo Ðường: Thảo Ðường, Thiệu Minh,
Phạm Âm,
Ðỗ Ðô, Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Hải Tịnh, Bát Nhã, Không Lộ Và
Ðịnh
Giác (tức Giác Hải) đồng thời cũng thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông.
Ta thấy
có tới 9 vị là cư sĩ, mà phần nhiều là vua vơi quan: Thánh Tông,
Anh Tông
và Cao Tông đều là vua, Ngô Ích là quan tham chính, Ðỗ Vũ là quan
thái
phó, Nguyễn Thức là quan quản giáp. Thiền phái Thảo Ðường, vì
những lý do
trên, đã không đủ sức tạo nên một truyền thống sinh hoạt tăng viện
độc lập
có thể lưu truyền về sau. Ảnh hưởng của thiền phái này chỉ đáng kể
về mặt
học tập.
Thuyền Uyển Tập Anh tuy có ghi lại tên họ 19 vị thuộc thiền
phái Thảo
Ðường nhưng không thể ghi lại tiểu sử, niên đại các bài truyền
thừa của
mỗi vị. Chắc hẵn những ghi chép này được thêm vào tương đối hơi
trễ trong
tác phẩm. Thông Biện đã không muốn ghi chép về Bát Nhã, và đã
không đề cập
gì đến thiền phái Thảo Ðường trong lời trình bày với Thái Hậu Phù
Cảm Linh
Nhân vào năm 1069, và Bát Nhã là vị thiền sư duy nhất của thế hệ
thứ hai
thiền phái Thảo Ðường. Thông Biện đã không muốn ghi chép về Bát
Nhã và Ðại
Ðiên bởi các vị này đã chứng tỏ chú trọng về tà thuật thần bí mà
không
chịu sống theo truyền thống tăng viện.