VIỆT NAM PHẬT GIÁO
SỬ
LUẬN
Nguyễn Lang
---o0o---
TẬP I
CHƯƠNG I
TRUNG TÂM PHẬT GIÁO LUY LÂU
BA TRUNG TÂM PHẬT GIÁO ÐỜI HÁN
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng
đầu kỷ
kỷ nguyên Tây lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết rằng vào hạ bán
thế kỷ thứ
hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật Giáo phồn vinh và quan
trọng
rồi, nhưng có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu
của kỷ
nguyên.
Các tài liệu như Hậu Hán Thư trong
đó có câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật Giáo, sách Lý
Hoặc Luận
của Mâu tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ hai,
kinh
Tứ Thập Nhị Chương và một số tài liệu khác, có tính cách lặt
vặt hơn,
cho ta thấy rằng trong đời Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai)
ngoài hai
trung tâm Phật Giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật Giáo
rất quan
trong khác ở Giao Chỉ, tưc Việt Nam, lúc bấy giờ đang nội thuộc
Trung
Quốc.
Hai trung tâm ở Trung Hoa là trung
tâm
Lạc Dương và trung tâm Bành Thành. Lạc Dương là kinh đô
Trung
Hoa vào đời nhà Hán, Hiện nay là một huyeetnj ở tỉnh Hà Nam, còn Bành
Thành thì ở về hạ lưu sông Dương Tử, hiện thuộc tỉnh Giang Tô.
Ở nước
ta thì có trung tâm Luy Lâu: Luy Lâu là trị sở bấy giờ của
Giao
Chỉ, hiện nay thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Trong ba trung tâm Phật Giáo đời
Hán vừa
kể, trung tâm nào được thành lập sớm nhất? Hiện giời chưa có câu
trả lời
dứt khoát. Nhưng đứng về nguồn gốc, chỉ có trung tâm Luy Lâu tại
Giao Chỉ là ta biết chắc chắn do đau mà được thành lập. Nguồn gốc
của hai
trung tâm Lạc Dương và Bành Thành vẫn còn rất mờ. Có
nhiều
dữ kiện khiến cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được
thành lập
sớm nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các
trung tâm
Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa.
NGUỒN GỐC TRUNG TÂM LUY LÂU
Trung tâm Luy Lâu được hình thành
do sự
viếng thăm của những tăng sĩ Ấn Ðộ. Các vị tăng sĩ này tới viếng
Việt Nam
bằng đường biển, theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi
các vị
tăng sĩ Ấn Ðộ tới Việt Nam, các thương gia Ấn Ðộ cũng đã tới Việt
Nam rồi
và cũng đã mang theo sinh hoạt Phật Giáo tới xứ ta.
Hồi bấy giờ (đầu kỷ nguyên) Ấn Ðộ
đã có
liên hệ th ưong mai trực tiếp với Trung Ðông và gián tiếp với các
nước
vùng Ðịa Trung Hải, Ðế quốc La Mã tiêu thụ rất nhiều vàng, lụa,
hương
liệu, trầm, quế, tiêu, ngà voi, châu báu... Ðể có đủ hàng cung cấp
cho thị
trường ấy, các thương gia Ấn Ðộ đã dong thuyền đi mãi vè Viễn
Ðông. Những
thương thuyền này theo gió mùa Tây nam đi về Ðông Nam Á, tời bờ
biển Mã
Lai, Phù Nam và Giao Chỉ. Thương gia Ấn Ðộ phải ở lại đây cho đến
năm tới,
chờ cho gió mà Ðông bắc để trở về Ấn Ðộ. Trong thời gian này, họ
lại sống
với dân bản xứ à đã ảnh hưởng tới dân bản xứ bằng lối sống văn
minh của
họ. Vì sự có mặt của những thương gia Ấn Ðộ mà dân ta hồi đó đã
biết đến
ít nhiều về kỹ thuật canh tác, y thuật và tôn giáo Ấn Ðộ. Ta có
thể nói
rằng chính những thương gia Ấn Ðộ đã trước tiên đem Phật giáo vào
nước ta.
Những thương gia kia, tuy vậy,
không phải
là những nhà truyền giáo, và mục đích của họ khi đến xứ ta là để
buôn bán
chứ không phải là để truyền đạo. Trong thời gian lưu lại Giao Chỉ,
họ thờ
Phật, đốt trầm, đọc kinh và cúng dường những pháp Phật nho nhỏ mà
họ mang
theo. Người Giao Chỉ ta đã áp dụng những điều hay về canh nông và
về y
thuật do họ chỉ bày, cố nhiên là cũng tỏ ra mến chuộng tôn giáo
của họ.
Nhưng nếu hồi đó có những người Giao Chỉ theo đạo Phật thì đạo
Phật đây
cũng mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ của người cư sĩ,
giới
hạn trong sự tụng đọc tam quy, cúng dường Phật tháp và bố thí cho
người ốm
đau đói khổ mà thôi, chứ chưa có sự học hỏi kinh điển và chế độ
tăng sĩ.
Trong các chuyến đi xa hàng năm với
nhiều
tháng lênh đênh trên biển cả như thế, các thương gia Ấn cũng th ờ
cúng và
cầu nguyện đức Phật và các vị Bồ Tát hộ trì cho trời yên biển lặng
và mọi
sự yên lành. Các thương thuyền này thường thờ đức Quán Thế Âm
(Avalokitesvara) và đức Nhiên Ðăng (Dipankara), được nổi tiếng là
những vị
che chở cho thủy thủ được an lành ngoài biển khơi.
Cũng trong mục đích cầu nguyện và
cúng
dường tam bảo, họ thỉnh theo thương thuyền một vị tăng sĩ. Chính
những vị
tăng sĩ đi theo thương thuyền này sẽ lập nên trung tâm Phật giáo
Luy Lâu
tại Giao Chỉ.
Tuy nhiên, những vị tăng sĩ đi theo
các
thương thuyền Ấn Ðộ không phải chỉ mục đích giảng đạo và cầu
nguyện cho
các Phật tử trong thương thuyền. Vào cuối thế kỷ thứ nhất trước
Tây lịch,
khuynh hướng Phật Giáo đại thừa đã nẩy nở tại Ấn Ðộ, và vào đầu th
ế kỷ
thứ nhất của kỷ nguyên Tây lịch, các trung tâm Amaravati và
Nagarjunakonda ở miền duyên hải Ðông nam Ấn Ðộ dần dần trở nên
những
trung tâm Phật giáo truyền báo vào các nước xa là một trong những
hoa trái
của đạo Phật đại thừa; chính ý hướng này đã thúc đẩy những vị tăng
sĩ đi
theo vơi các thương thuyền về Ðông Nam Á. Trung tâm Phật Giáo Luy
Lâu được
thiết lập do sự viếng thăm của thương gia và tăng sĩ Ấn Ðộ tới
bằng đường
biển, đó là một điều tất cả các học giả đều phải đồng ý. Ðạo Phật
tại Giao
Châu do từ Ấn Ðộ truyền sang trực tiếp, không phải là từ Trung Hoa
truyền
xuống.
TRUNG TÂM LUY LÂU THÀNH LẬP SỚM HƠN CÁC TRUNG TÂM LẠC DƯƠNG VÀ BÀNH THÀNH.
Giao Chỉ tuy nội thuộc nhà Hán
nhưng vì ở
quá xa và vì phong tục văn hóa khác biệt với đời sống người Hán
nên thư
tịch Trung Hoa, trong đó kể cả Hậu Hán Thư, hầu như không
hề để cập
đến. Tác phẩm Phật giáo đầu tiên viết bằng Hán tự, trong khi đó,
lại được
viết tại Giao Chỉ, đó là cuốn Lý Hoặc Luận [1]
của Mâu Tử, một người Trung Hoa trước theo Lão Giáo, sau nhập tịch
Giao
Chỉ, theo học đạo Phật ở đây và trở nên một Phật tử rất thuần
thành. Nhiều
người, trong đó có ông Trần Văn Giáp, tác giả cuốn Le
Bouddhisme En
Annam Des Origines Au XIIè Sièle, căn cứ vào sự kiện đó nói
rằng vì
tài liệu sớm nhất ta hiện có về đạo Phật tại Giao Chỉ vào cuối thế
kỷ thứ
hai, ta chỉ có thể nói là đạo Phật được truyền vào nước ta trễ lắm
là
trong thế kỷ ấy.
Ở đây, dù thiếu tài liệu trực tiếp
về đạo
Phật Giao Chỉ, chúng tôi cũng muốn dùng những tài liệu liên hệ tới
các
trung tâm Phật Giáo Hậu Hán để chứng minh rằng trung tâm Luy Lâu
được
thành lập sớm hơn các trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, và như
thế là đã
được hình thành vào thượng bán thế kỷ thứ nhất của Tây lịch.
Ðạo Phật truyền qua Trung Hoa bằng
hai
đường: đường bộ từ Trung Á, và đường thủy ngang qua biển Nam Hải.
Theo
Thang Dụng Hình, tác giả Hán Ngụy Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều Phật
Giáo Sử
[2],
đạo Phật Trung Hoa phần lớn được truyền sang bằng đường bộ. Ông
Thang nhấn
mạnh nhiều lần về điểm này, tuy nhiên ông không đưa ra những bằng
chøng cụ
thể. Nhiều người có khuynh hướng cho rằng trung tâm Lạc Dương được
thiết
lập do những tăng sĩ Phật Giáo Ấn Ðộ và Trung Á tới bằng đường bộ:
nhìn
trên bản đồ ta thấy đường bộ gần hơn đường thủy, và đọc sách xưa
ta đã bị
ảnh hưởng gián tiếp của câu chuyện giấc mộng vua Hán Minh Ðế[3]
. Sự thực là tuy con đường bộ nối liền Ấn Ðộ và
Trung Hoa
có đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử truyền bá Phật Giáo
vào Trung
Hoa, nhưng những vị tăng sĩ đầu tiên tời Trung Hoa hầu h ết đều do
đường
biển mà tới. Lý do giản dị nhất là hồi đó tuy con đường thủy có
thể dài
hơn nhưng tương đối an ninh và dễ dàng hơn con đường núi non và sa
mạc rất
nhiều.
Con đường bộ trở nên tương đối dễ
dàng bắt
đầu từ thế kỷ thứ tư. Tuy vậy Pháp Hiển (cuối thế kỷ thứ tư) và
Huyền
Trang (thế kỷ thứ bảy) vẫn còn phải trải qua bao khổ nhọc mới đi
trọn con
đường ấy. Nhiều vị tăng sĩ ở các nước Trung Á đã sang Việt Nam rồi
đên
Trung Hoa bằng đường thủy, trong khi đó thì những nước Trung Á ấy
lại nằm
giữa Ấn Ðộ và Trung Hoa.
TRUNG TÂM LẠC DƯƠNG
Lạc Dương là kinh đô của nhà Hán.
Tục
truyền rằng vua Hán Minh Ðế (58 - 75 T.L) một đêm nằm mộng thấy
một người
vàng bay trước điện. Vua hoan hỷ ngắm nhìn, sáng mai thức dậy liền
hỏi
quần thần “đó là vị thần nào vậy?” Có một vị cận thần tên Truyền
Nghị tâu
“Thần nghe ở nước Thiên Trúc có người đắc đạo, gọi là Phật,
có thể
phi hành trên hư không, thân thể có hào quang. Chắc là vị thần ấy
đấy”.
Vua liền cử một phái đoàn đi sang nước Ðại Nhục Chi (Scythia).
Phái đoàn
thỉnh được kinh Tứ Thập Nhị Chương đem về.
Câu truyện trên kia được ghi chép
đầu tiên
trong Lý Hoặc Luận của Mâu Tử, trong Lão Tử Hóa Hồ Kinh
và
trong bài tựa kinh Tứ Thấp Nhị Chương; và trong suốt mười
mấy thế
kỷ đã được xem như là câu chuyện thực vè sự du nhập của Phật Giáo
và đất
Hán.
Có quá nhiều nghi vấn được đặt ra
về câu
chuyện trên khiến cho câu chuyện đã mất hết giá trị lịch sử. Trước
hết,
nếu Truyền Nghị có thể giải thích được giấc mộng “người vàng” là
Phật, thì
đó có nghĩa là ông ta đã nghe nói đến Phật giáo đã được du nhập
trước khi
vua Hán nằm mộng. Thứ đến, dữ kiện về năm đi năm về của phái đoàn
và về
tên tuổi các nhân viên của phái đoàn cũng bất nhất. Có bản chép Trương
Khiên là một trong những nhân viên của phái đoàn, trong khi
Trương
Khiên là nhân vật sống vào thế kỷ thứ hai trước Tây lịch.
Các bản
xưa nhất không chép có vị tăng Ấn Ðộ nào về theo phái đoàn, trong
khi các
bản in thế kỷ thứ năm nói có một vị, và một tác phẩm thế kỷ thứ
sáu lại
nói có hai vị tăng Ấn Ðộ.
Cuối cùng, người ta nghĩ khó mà tin
rằng
chỉ vì một giấc mộng mà một phái đoàn quan trọng thế kia đã được
gửi đi
một chuyến hành trình quá gian khổ như thế. Truyền thuyết giấc
mộng Hán
Minh Ðế vì vậy không có căn bản vững chắc. Ông Henri Maspéro năm
1910 đã
đem nhiều chứng liệu để chứng minh rằng chuyện Giấc Mộng Hán
Minh Ðế
chỉ là một sự “ăn gian vì đạo” (fraude pieuse) bịa đặt vào hạu bán
thế kỷ
thứ hai (Le Songe Et l’Ambassade De l’Empereur Ming, étude
critique des
sources - BEFEO, X).
Nhưng tại sao người ta lại bịa đặt
ra câu
chuyện giấc mộng? Rất có stheer vì trong đời nhà Hán, ngoài trung
tâm Phật
Giáo Lạc Dương còn có trung tâm Bành Thành và trung
tâm
Luy Lâu. Những người theo Phật Giáo ở kinh đô Lạc Dương trong
khoảng
giữa thế kỷ thứ hai có thể đã tạo dựng nên câu chuyện kia để chứng
tỏ rằng
Phật Giáo Lạc Dương có sớm nhất, trong mục đích tạo uy tín cho
trung tâm
này. Nếu câu chuyện thấy có chép trong tác phẩm Lý Hoặc Luận, chắc
chắn đó là một sự thêm thắt sau này. Mâu Tử học Phật ở Luy Lâu,
không phải
ở Lạc Dương; ông có thể chưa bao giờ nghe nói đến một nơi nào có
Phật Giáo
ngoại trừ Giao Châu cả, và câu chuyện giấc mộng chắc đã được thêm
vào tác
phẩm sớm nhất là vào giữa thế kỷ thứ ba. Trong Lý Hoặc Luận,
ta có
thể tìm ra một số từ ngữ và cách hành văn có mầu sắc thế kỷ thứ ba
và thứ
năm; những yếu tố này cho ta biết một vài điều sửa chữa và thêm
thắt đã
xảy ra cho tác phẩm trong các thé kỷ đó.
Tuy nhiên, trung tâm Phật Giáo Lạc
Dương
là một trung tâm quan trọng vào hạ bán thế kỷ thứ hai. Vua Hoàn
Ðế
(tức vị năm 165) đã thờ Phật trong cung cùng với Lão Tử (trong lá
sớ của
Tương Giai dâng vua Hoàn Ðế năm 166. Hậu Hán Thư
chép); như
vậy ta biết ảnh hưởng của Phật Giáo lúc này đã khá mạnh. Thời đó,
tại Lạc
Dương có các vị tăng sĩ ngoại quốc cộng tác với người Hán phiên
dịch kinh
sách từ Phạn Ngữ ra Hán tự. An Thế Cao một vị tăng sĩ người
An Tức
(Parthia) cùng với một vị khác người đồng hương tên la An Huyền
cùng dịch
kinh với một Hán tên Nghiên Phù Ðiều.
Hai ngôi chùa nổi tiếng của thời
đại là
chùa Bạch Mã và chùa Hứa Xương. Chính cái tên của
ngôi chùa
Hứa Xương này đã cho ta một vài dữ kiện về nguồn gốc sự thành lập
trung
tâm Lạc Dương.
TRUNG TÂM LẠC DƯƠNG ÐƯỢC THÀNH LẬP DO TỪ TRUNG TÂM BÀNH THÀNH
Hứa Xương là tên một ngôi chùa cổ
nhất của
trung tâm Lạc Dương, nhưng cũng là tên của một người em họ của Sở
Vương
Anh. Sở Vương Anh là em cùng cha khác mẹ với vua Hán Minh Ðế,
được
phong tước Vương năm 41. Năm 52, Sở Vương Anh di cư ra Bành Thành,
kinh đô
của nước Sở. Hậu Hán Thư có chép câu chuyện sau đây: Năm
65, vua
Minh Ðế xuống chiếu cho phép những người nào bị tội nặng được dâng
vóc lụa
để chuộc tội. Sở Vương Anh có mặc cảm mình cũng có tội, nên dang
lên vua
Minh Ðế ba mươi tấm lụa. Vua Minh Ðế xuống chiếu nói rằng Vương
không có
tội gì, trái lại, Vương còn có công đức “biết sùng thượng giáo lý
cao siêu
của Hoàng Lão và đức nhân từ bao la của Phật” (Thượng Hoàng Lão
chi vi
ngôn, thượng Phù Ðồ chi nhân từ). Vương bèn làm lễ sám hối, ăn
chay ba
tháng và tổ chức thịnh soạn cúng dường tăng sĩ và cư sĩ. Như thế
rõ ràng
là trung tâm Bành Thành được thành lập sớm hơn trung tâm Lạc
Dương; chính
ở đây vào năm 65 đã có một đoàn thể Phật Giáo vừa tăng già và cư
sĩ. Tăng
già đây chắc chắn là những vị tăng già ngoại quốc, bởi lẽ người
Trung Hoa
trong đời Hán chưa được phép xuất gia. Cao Tăng Truyện
trích lời sớ
của Vương Ðộ đời Tấn: “Từ khi Phật Giáo được du nhập chỉ nghe nói
đến các
sư Tây Vực được phép lập chùa thờ Phật, người Hán không được phép
xuất
gia. Nhà Ngụy theo pháp chế của nhà Hán cũng chưa cho dân bản xứ
xuất
gia”. Ông Thang Dụng Hình: Trong sách Hán Ngụy Lưỡng Tấn Nam
Bắc Triều
Phật Giáo Sử nêu lên thuyết là vào đời Hán đã có người Hán
xuất gia
rồi. Và có lẽ những người xuất gia này chỉ thọ Nguyễn giới của Ưu
Bà Tắc
thôi. Ðiều này không đứng vững, bởi vì như thế thì câu chuyện cần
già phải
phân biệt xuất gia và tại gia trong câu nói “đặt tiệc thịnh soạn
cúng
dường tăng sĩ và cư sĩ”. Ông Thang Dụng Hình còn đưa ra chứng cớ
Nghiêm
Phù Ðiều, người Phật tử cộng tác với An Thế Cao dịch kinh tại Lạc
Dương,
là một người Hán xuất gia. Nhưng không có tài liệu gì chứng chắc
Nghiêm
Phù Ðiều cũng không có vẻ là tên của một người xuất gia.
Trở lại chùa Hứa Xương. Sở Vương
Anh mất
năm 71, đã biến một ngôi nhà của Hứa Xương Tự và đã ảnh hưởng sâu
xa tới
tín ngưỡng của Hán Hoàn Ðế.
NGUỒN GỐC TRUNG TÂM BÀNH THÀNH
Liên hệ tới trung tâm Bành Thành,
ngoài
câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật, còn có câu chuyện Sạ Dung làm
chùa. Theo sách Ngô Chí, Sạ Dung người Ðơn Dương, làm quan
phụ
trách vận tải lương thực miền hạ lưu sông Dương Tử, Sa Dung làm
cách mệnh
giữ lấy lương thực, quyền bính một phương. Ông chùa o nấu thức ăn
bầy ra
đường dài tới mười dặm để cho người đói tới ăn. Sau đó ông ta cất
một ngôi
chùa lớn, trong đó có thờ tượng Phật thếp vàng; lại xây một cái
lầu có thể
chứa tới tới 3.000 người. Ông ta tổ chức tụng kinh, thuyết pháp,
làm lễ
cúng Phật. Sạ Dung mất năm Hưng Bình thứ hai đời Hán Hiến Ðế
(195). Sách
Thủy Kinh Chú cũng cho biết trước khi Sạ Dung làm chùa vài
năm, có
một gia đình theo đạo Phật gần đó đã xây một cây tháp cao để thờ
một người
trong gia đình vừa mất. Các câu chuyện trên đều xác nhận thêm rằng
Bành
Thành vào hạ bán thế kỷ thứ hai là một trung tâm Phật Giáo quan
trọng.
Không có sử liệu nào nói về nguồn gốc của trung tâm Phật Giáo Bành
Thành.
Trung tâm này, như ta đã thấy, đã là nguồn gốc của trung tâm Lạc
Dương thì
không thẻ nào do từ trung tâm Lạc Dương mà được thành lập. Ta cũng
phải
loại gỉ thuyết cho rằng đạo Phật truyền vào miền hạ lưu sông Dương
Tử bằng
đường bộ. Chỉ còn có thẻ nói Phật Giáo được truyền vào Bành Thành
bằng
đường biển. Lương Khải Siêu cũng quả quyết như vậy. Nếu đã do hải
đạo thì
đạo Phật chắc chắn phải đi qua Giao Chỉ trước, bởi vì Giao Chỉ là
một điểm
giao tiếp quan trọng giữa Trung Hoa va thế giới bên ngoài. Sự có
mặt của
trung tâm Luy Lâu trong thời Hán đã là một sự thực hiển nhiên, thì
trung
tâm Luy Lâu làm căn cứ là bàn đạp cho Phật giáo đi vào đất Hán là
một
chuyện dĩ nhiên vậy. Ta không thể tưởng tượng rằng trong đầu thế
kỷ thứ
nhất, các vị du tăng Ấn Ðộ đổ bộ lên Quảng Châu và đi thẳng lên
miền hạ
lưu sông Dương Tử trong khi họ chưa biết Hán ngữ và trong khi đất
Hán chưa
có một cơ sở và một dấu tích gì về đạo Phật để móc nối. Các vị
tăng sĩ
theo thương thuyền, dù đổ bộ lên đất Phù Nam, Chân Lạp, Nhật Nam,
Cửu
Chân, Giao Chỉ hay Quảng Châu hẳn cũng phải dừng chân quy tụ tại
địa điểm
giao tiếp Giao Chỉ, rất thuận lợi cho họ về mọi mặt. Giao Chỉ sát
các nước
chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Ðộ như Phù Nam, Chân Lạp, Chiêm Ba
(Chàm),
những nước có sử dụng Phạn ngữ. Văn hóa Giao Chỉ tuy khác với văn
hóa này
hơn cả và ở đây Hán tự đã được dùng. Vậy Giao Chỉ là đất duy nhất ở
đó có
thể tìm người thông dịch dễ dàng. Giao Chỉ thuận lợi vè mặt địa dư
và ngôn
ngữ. Sau khi có thời gian nghỉ ngơi, học tập sinh ngữ, thăm hỏi
tình hình
chính trị và địa thế, các vị du tăng Ấn Ðộ mới nghĩ đến chuyện
vượt hàng
tháng miền núi đi lên miền Bắc. Chính do vai trò địa lý và văn hóa
đó của
Giao Chỉ mà trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được thành lập và thành
lập vào
tiền bán thế kỷ thứ nhất, bởi đến năm 65 ta thấy dấu tích Phật
giáo ở Bành
Thành rồi (Sở Vương Anh mộ Phật) một vài học giả cho rằng chữ Giao,
trong Giao Chỉ vốn là chữ Giao trong Giao Long, nhưng theo chúng
tôi, chứ
Giao đây có nghĩa là mô giới giao tiếp - giao tiếp giữa lục địa
Hán và
nước ngoài. Vai trò địa lý này hiện vẫn còn như xưa. Việt Nam vẫn
là cửa
ngõ đi vào lục địa Trung Hoa, và danh từ Indo- Chine dùng
để chỉ
cho bán đảo đông Dương cũng mang cùng một ngụ ý giao tiếp như vậy.
Ta có
thể kết luận rằng trung tâm Bành Thành được thành lập do sự viếng
của các
tăng sĩ phát xuất từ trung tâm Luy Lâu.
Nhà học giả Trung Hoa Hồ Thích
(Hồ
Thích Luận Học Cận Trước, Thượng Hỉa, 1935) nói rằng hồi đó đã
có
những đường liên lạc giữa trung tâm Luy Lâu và trung tâm Bành
Thành. Ông
cho rằng đã có những vị tăng sĩ khởi hành từ Giao Châu đến Vũ Châu
(ở
Quảng Tây) rồi từ Quảng Tây đến Quảng Ðông, và từ Quảng đông vượt
qua núi
non đi tới miền hạ lưu lưu châu thổ sông Dương Tử. Hậu Hán Thư
cũng
có nói đến những chuyến đi từ Giao Châu đến miền hạ lưu sông Dương
Tử bằng
đường biển. Hậu Hán Thư ghi chép: Quận Nhật Nam đem phẩm
vật cống
hiến Hán Ðế bằng đường biển. Khương Tăng Hội là một vị tu sĩ dòng
dõi
người Khương Cư (Sogdiane), sinh trưởng trên đất Giao Châu đến hạ
lưu sông
Dương tử để truyền đạo. Ngoài lý do trên còn có những chứng cớ sau
đây
giúp kết luận rằng trung tâm Luy Lâu vào đời Ðông Hán là mọt căn
cứ Phật
giáo quan trọng, từ đó Phật giáo đã được truyền vào đất Hán:
1. Trong ba trung tâm Phật Giáo đời
Hán,
trung tâm Luy Lâu là trung tâm có tổ chức tăng đoàn sớm nhất.
Trong sách
Lý Hoặc Luận viết về những tệ trạng của giới tăng sĩ Giao
Châu vào
hạ bán thế kỷ thứ hai, Mâu Tử nói: “Sa môn ngày nay có kẻ lại
thích uống
rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ tiền bạc, của quý, lại
chuyên
môn lừa dối”. Như vậy ta biết rằng tăng đoàn Giao Châu thời đó đã
khá đông
đảo mời có nhiều tệ đoan như vậy. Danh từ “Sa môn ngày nay”
mà Mâu
Tử dùng không thể để chỉ một số ít tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao
Châu, mà
là chỉ số đông tăng sĩ Giao Châu vậy.
2. Ở Trung Hoa, mãi đến năm thứ hai
niên
hiệu Gia Bình (năm 250) mới có Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn qua thực
hành pháp
“thập nhân thọ” để làm lễ trao giới xuất gia cho người muốn làm Sa
môn.
Theo phép này, lễ xuất gia truyền giới phải do một hội đồng mười
vị tăng
sĩ chủ tọa mới được hợp pháp. Trong mười vị đó, có ba vị thầy (Tam
sư:
hòa thượng, yết ma và giáo thụ) và bảy vị Tôn chứng chứng
minh.Ở
Giao Châu phép “thập nhân thọ” này đã được áp dụng chậm nhát là
vào hạ bán
thế kỷ thứ hai. Ta thấy Khương Tăng Hội (sinh trưởng tại Giao
Châu, cha mẹ
mất lúc mười tuổi, đã đi xuất gia tại Giao Châu khoảng mười năm
sau đó)
viết trong bài tựa kinh An Bang Thủ Ý, có than thở rằng tam
sư
của mình đã viên tịch qúa sớm: “Tôi sinh ra như dấu tích cuối
cùng, vừa
mới đủ sức vác củi thì mẹ cha đều mất, bậc tam sư cũng viên tịch,
nhìn lên
mây trời, buồn thấy mình thiếu người chỉ dạy...”Trong số mười vị
truyền
giáo cho Khương Tăng Hội ta không biết có vị nào là tăng sĩ ngọai
quốc
không. Ta cũng không thể nói tất cả mười vị kia đều là tăng sĩ
ngoại quốc
được. Khương Tăng Hội tuy là dòng dõi người Khương Cư, nhưng theo Lương
Cao Tăng Truyện, thì cha mẹ ông đã sang cư trú tại Giao Châu
làm nghề
buôn bán, và khi ông lên mười tuổi thì cha mẹ đều mất. Sinh trưởng
tại
Giao Châu, cố nhiên ông nói tiếng Giao Châu: xuất gia học Phật tại
Giao
Châu và có khả năng dịch thuật kinh Phạn ra kinh Hán, ông chắc
chắn đã học
Phạn ngữ và Hán ngữ tại Giao Châu. Cao Tăng Truyện (viết
vào khoảng
520 sau Tây lịch) cho rằng Tăng Hội là vị tăng sĩ đầu tiên xuất
hiện sớm
nhất ở Giang Nam, và trước đó tại đất này chỉ có một vị cứ sĩ tên
là Chi
Khiêm người nước Nhục Chi từ phương Bắc chạy loạn xuống.
3. Tập luận thuyết đầu tiên về đạo
Phật
bằng Hán tự đã được viết tại Giao Châu. Tác giả như ta đã biết,là
Mâu Tử,
sinh vào khoảng 165 - 170.
Người Phật tử này đã học Phật tại
Giao
Châu và viết cuốn sách kia để đáp lại những kích bác về Phật tử
của những
người không theo đạo Phật, nhất là những người theo Khổng Lão từ
đất hán
chạy qua tị nạn Tam Quốc. Bài tựa sách Lý Hoặc Luận nói:
“Sau khi
Hán Linh Ðế mất
[4]
trong nước rối loạn, chỉ có đất Giao Châu tạm yên, những bậc dị
nhân Bắc
phương đều đến ở lại đây, nhiều người theo thuật tịch cốc trường
sinh của
thần tiên. Thời ấy có nhiều học giả. Mâu Tử thường đem Ngũ Kinh ra
vấn
nạn, nhiều đạo gia và thuật sĩ không làm sao đối đáp lại được”.
Mâu Tử học
Phật ở Giao Châu, chắc chắn không phải với những nhân sĩ theo đạo
tịch cốc
trường sinh, mà là với những tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao Châu
thời và
với những tăng sĩ người Giao Châu. Không biết Mâu Tử có góp phần
vào công
việc dịch thuật kinh sách Phạn ngữ ra Hán ngữ đầu tiên về Phật
Giáo không?
Có lẽ Mâu Tử đã phải học tiếng Phạn để nghiên cứu Phật Giáo. Cũng
có thể
có một số ít người theo gương Mâu Tử theo đạo Phật và góp công vào
việc
dịch thuật kinh điển. Xét về hình thức cũng như nội dung kinh TưThập
Nhị Chương, ta có thể nói rằng kinh này được trích dịch lại từ
nhiều
kinh điển, và xuất hiện tại Giao Châu trong thế kỷ thứ hai Tây
lịch, chứ
không phải do phái đoàn Hán Minh Ðế mang từ nước Nhục Chi về.
4. Sách Ngô Chí có chép một
lá thư
của Viên Huy nhà Hán gửi từ Giao Châu cho thượng thư lệnh
là
Tuân Húc năm 207, trong đó có một đoạn như sau: “Sĩ Nhiếp ở
Giao Châu
đã học vấn sâu rộng lại giỏi chính trị, nên trong buổi đại loạn
vẫn được
một quận yên ổn hơn 20 năm, bờ cõi không việc gì, dân vẫn yên
nghiệp. Anh
em đều làm quan coi quận, hùng tướng một châu, ở lánh xa muôn dặm,
uy tín
không ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết:
kèn sáo
thổi vang, xe ngựa đầy đường; người Hồ đi sát bánh xe đốt hương
thường có
đến mấy mươi người...”. Danh từ Hồ ở đây chỉ cho người Ấn Ðộ. Ðây
cũng là
một chứng cớ về tính chất Ấn Ðộ của đạo Phật Giao Châu ở trong hạ
bán thế
kỷ thứ hai.
5. Vào thời Mâu Tử và Khương Tăng
Hội
(cuối thế kỷ thứ hai đầu thế kỷ thứ ba) ở Giao Châu đã có lưu hành
ít nhất
là mười lăm bộ kinh rồi, và số tăng sĩ tại Giao Châu đã có khoảng
năm trăm
vị. Tài liệu này được chép trong cuốn Thiền Uyển Tập Anh
Ngữ Lục,
một tác phẩm hoàn thành đầu đời Trần, nói về ba phái Thiền tông
Việt Nam
trước đó. Sau đây là đoạn văn hiên hệ tới tiểu sử thiền sư Thông
Biện, tuy
hơi dài nhưng là tài liệu quan trọng nhất của Việt Nam về lịch sử
du nhập
của Phật Giáo vào Giao Châu.
“Ngày rằm tháng Hai năm Hội Phong
thứ năm
(1906), hoàng thái hậu Phù Cảm Linh N hân thiết lễ trai tăng và
cùng các
bậc kỳ túc cứu vấn về nghĩa Phật và Tổ {...} Bà hỏi: “Phật ở
phương nào?
Tổ ở nước nào? Ai hơn ai kém? Ðến nước ta hồi nào để truyền đạo?
Ai đến
trước ai đến sau? Người nào dạy niệm danh hiệu Phật, người nào dạy
đạt tâm
ý Tổ?” Trong khi mọi người còn đang yên lặng thì thiền sư Trí
Không trả
lời: “Phật là bậc thường trú thế gian, bất sinh bất diệt; Tổ là
người đạt
đến tông chỉ của Phật Tâm và tới trình độ kiến giải và thực hành
đi đôi
với nhau. Phật và Tổ là một. Chỉ có kẻ kém học mới vọng nghĩ giữa
Tổ và
Phật có hơn có kém. Vả lại, Phật là giác ngộ. Sự giác ngộ này vốn
trạm
nhiên thường trú - tất cả mọi sinh linh đều có bản tính giác ngộ,
chỉ vì
bụi vọng tình che lấp, trôi theo nghiệp báo mà lưu lạc mà lưu lạc
mãi
trong vòng ngũ thú. Vì tâm từ bi nên Phật thị hiện giáng sinh ở
Tây Trúc
vốn là xứ trung ương vậy. Năm mười chín tuổi xuất gia, năm ba mươi
tuổi
thành đạo. Thuyết pháp trên đời trong 49 năm, bày ra bao nhiêu
phương tiện
giáo hóa để giúp cho người ngộ đạo; đó là thời đại lập giáo vậy.
Trước khi
nhập niết bàn, Ngài ngại người sau mê chấp nên nói với Văn Thù:
Trong số
49 năm qua, ta chưa từng nói một tiếng, chứ đừng nói là có diễn
bày ra
những học thuyết. Nhân đó Ngài đưa lên cành hao. Ðại chúng đều
mang mang,
chỉ có tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Phật biết Ca Diếp có điều khế
ngộ, liền
đem chính pháp nhãn tạng trao cho, đó là tổ thứ nhất. Ðây là tâm
tông
truyền lại, biệt lập ngoài giáo điển vậy. Sau đó Ma Ðằng đem
giáo
lý này lưu nhập vào đất Hán, Ðạt Ma đem tông chỉ này truyền
vào
Lương Ngụy. Về Giáo Tông thì đến Thiên Thai Trí Giả là thanh; về
Thiền
Tông thì người đạt được tông chỉ vẻ vang nhất là Tào Khê Huệ Năng.
Hai
tông này đến nước Việt ta đã lâu rồi. Giáo Tông thì từ Mâg Tăng
Hội.
Thiền Tông thì có phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi là phái đầu tiên,
rồi đến
phái Vô Ngôn Thông, Hai vị đó là tổ của hai phái vậy”. Hậu
hỏi: “Về
hai thiền phái ấy, có chứng cơ gì để giảo nghiệm?” Thiền sư đáp:
“Xét
truyện Ðàm Thiên pháp sư, ta thấy vào đời Tùy Cao Tổ, giáo pháp
được nâng
đỡ rất nhiều. vua Văn Ðế nói: “Trẫm nghĩ nhớ tới lòng từ bi của
đức Ðiều
Ngự khi ngày thuyết dạy chính pháp, không biết làm sao để báo ân
đức này.
Từ khi lên ngôi, trẫm đã hỗ trợ tam bảo khắp nơi, thâu xá lợi di
thể để
làm bảo tháp thờ khắp nước đến 49 nơi, để làm nơi dẫn dắt cho nhân
gian.
Trẫm đã làm hơn 150 ngôi chùa và tháp. Ta cũng muốn là chùa tháp ở
Giao
Châu để cho phước đức được thấm nhuần cả đại thiên thế giới. Xứ ấy
tuy nội
thuộc, nhưng ở quá xa. Vậy pháp sư hãy chọn một số danh tăng sang
đó để
giáo hóa khiến cho mọi người đều được biết đến đạo bồ đề”. Pháp sư
Ðàm
Thiên tâu: “Giao Châu có đường thẳng thông với Thiên Trúc”.
Khi
Phật Pháp mới tới Giang Ðông chưa đầy đủ gì thì ở thủ đô Luy Lâu
của Giao
Châu đã có tới hai mươi ngôi bảo sát (chùa), độ được h ơn 500 vịt
tăng và
dịch được 15 cuốn kinh rồi... Như vậy là vì Phật Giáo truyền
đến Giao
Châu trước khi truyền đến Giang Ðông vậy. Hồi ấy, có các vị
Tăng như
Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội,Chi Cương Lương, Mâu Bác... cư trú
tại đó.
Nay lại có Pháp Hiền thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ Ni Ða Lưu Chi,
truyền bá
tông chỉ của Tam Tổ, là một vị bồ tát sống, cư trú tại chùa Chúng
Thiện,
dạy dỗ giáo hóa đồ chúng có hơn ba trăm người, không thua gì ở
Trung Quốc.
Bệ hạ là một bực cha hiền khắp chốn, muốn bình đẳng bố thí, nhưng
đất kia
đã có người rồi, ta không cần gửi người tới nữa”.
Thiền sư Trí Không còn nói tiếp
thêm về
hai phái thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Vô Ngôn Thông và dẫn thêm chứng
cớ.
Hoàng thái hậu rất vừa ý. Sau này thiền sư được triều đình tôn
xưng là
Thông Biện quốc sư.
Thông Biện quốc sư là người học
rộng biết
nhiều, đã dùng một sử liệu Trung Quốc. Chúng ta chưa biết tiểu sử
Ðàm
Thiên pháp sư mà thiền sư trích dẫn nằm trong sách nào. Những sách
Thích Thị Thông Giams, Phật Tổ Lịch Ðại Thông Tải, Phật Tổ Thống
Kỷ, Tục
Cao Tăng Truyện... đều không thấy chép đoạn này. Nhưng Cao
Tăng
Truyện khi nói đến Khương Tăng Hội đã ghi một câu có thể chứng
minh
được lời Ðàm Thiên pháp sư nói. Sách này viết: “Khương Tăng Hội
vào năm
Xích Ô thứ mười (năm 247. Sách Quảng Hằng Minh Tập trong Ðại
Tạng Ðại chánh trích dẫn Ngô Thư, nói là năm Xích Ô thứ tư,
tức là năm
241.) đến đất Kiến Nghiệp; vì cảm phục, sự linh ứng của Xá Lợi,
vua Ngô
Tôn Quyền bèn dựng chùa Kiến Sơ. Từ đó, Phật pháp tại miền Giang
Nam bắt
đầu hưng thịnh”. Sách Lương Cao Tăng Truyện cũng chép tương
tự:”Lúc
ấy đại pháp đã truyền vào đất Ngô,nhưng sự hoằng pháp chưa đầy đủ.
Tăng
Hội muốn cho Phật pháp được hưng khởi ở miền Giang Tả, và chùa
tháp được
kiến lập thêm, nên Ngài mang tích trượng đi về phương Ðông. Vào
năm Xích Ô
thứ hai nhà Ngô, Ngài đến Kiến Nghiệp, và cất một thảo am... Khi
Khương
Tăng Hội cho thấy tính cách linh ứng của Xá Lợi Phật, Ngô Tôn
Quyền rất
kinh dị và thuần phục, ông liền cho dựng một ngôi chùa thờ Xá Lợi,
gọi là
chùa Kiến Sơ. Còn nơi Tăng Hội ở, gọi là Phật Ðà Lý. Sau đó, đại
pháp được
hưong thịnh tại miền Giang Tả”.
Trần Văn Giáp nêu nghi vấn về Ðàm
Thiên
pháp sư, nói rằng Ðàm Thiên sống trong triều đại nhà Tề, không
phải Tùy.
Sự thực là Ðàm Thiên sống trong triều đại nhà Tùy, là một vị pháp
sư được
vua Tùy Văn Ðế kính trọng vào bậc nhất (Xem Phật Tổ Lịch Ðại
Thông Tải).
Mười lăm cuốn kinh đã được dịch ra
Hán tự
và lưu hành tại Giao Châu vào cuối thế kỷ thứ hai là những kinh
nào? Ta
biết chắc chắn là trong số đó có kinh Tứ Thập Nhị Chương,
bởi sách
Lý Hoặc Luận của Mâu Bác có nói tới têm kinh này. Con số 15
bộ kinh
có thể không đúng, cũng như lời nói của Ðàm Thiên: “Giáo Tông bắt
đầu từ
Mâu Tử và Khướng Tăng Hội” đã không đúng. Cả hai người Mâu Tử và
Khương
Tăng Hội, đều không phải là người nước ngoài tới truyền đạo, trái
lại cả
hai người đều bắt đầu học Phật tại Giao Chỉ. Như thế, họ không
phải là
những người mà tên tuổi còn thấy rõ ràng trong sử sách thôi.
Khương Tăng
Hội xuất gia tại Giao Chỉ, có tam sư và thất chứng. Mâu Tử cũng đã
xuất
gia. Trong Lý Hoặc Luận có nhiều đoạn khiến ta nghĩ rằng số
kinh
điển lưu hành tại Giao Chỉ dồi dào hơn con số Ðàm Thiên kể ra gấp
bội. Ta
đọc thử đoạn sau đây của Lý Hoặc Luận:
“Người ta hỏi Mâu Tử: Chân lý chí
thật thì
thường không văn hoa, lời nói chí lý thì không hoa hòe... cho nên
châu
ngọc thì quý giá mà ngói vụn thì là đồ bỏ. Xưa thánh nhân chế ra
bảy kinh,
văn từ không quá ba vạn lời và không có gì không đủ trong từng ấy
kinh
văn. Ngày nay, chương điển của Phật Giáo có đến hàng ngàn ức, sức
một
người không thể nào đọc hết được. Tôi chán và không muốn đọc”.
Một đoạn khác:
“Người ta hoải Mâu Tử: Lời lẽ trong
kinh
Phật không chỉ bày được chân lý của vạn vật mà chỉ dùng ví dụ quá
nhiều..
Dù lời lẽ nhiều nhưng cũng như chiếc xe bò đựng đầy bụi ngọc,
người ta
không cho là quý”.
Những đoạn trên, viết vào cuối thế
kỷ thứ
hai hẳn có thể cho ta một khái niệm về số lượng kinh Phật lưu hành
ở Giao
Chỉ thời ấy.
Rất tiếc ta không biết được đó là
những
kinh gì, ngoài kinh Tứ Thập Nhị Chương, kinh Bản Sinh
(Vessantara - jātaka
trong đó có chuyện thái tử Tu Ðại Noa) và kinh Bản Sự (đời
của
Phật), nhờ một vài chi tiết của Lý Hoặc Luận. Có thể trong
số kinh
điển kia cũng có cả một bản dịch Milinda - panha nữa, bởi
vì thể
tài Lý và Luận là thể tài vấn đáp bắt chước y hệt như Di
Lan Vấn
Ðạo Kinh, và trong văn học Trung Hoa trước đó cũng như sau đó
hàng
trăm năm cũng không có một tác phẩm nào viết theo đề tai ấy.
Ðàm Thiên còn nói tới việc “độ được
hơn
500 vị tăng”. Danh từ “độ Tăng” ở đây có nghĩa là làm lễ truyền
giới Sa
Môn xuất gia để người cư sĩ trở thành người tăng sĩ. Số tăng sĩ
này chắc
chắc là tăng sĩ Giao Châu, bởi vì những tăng sĩ ngoại quốc có mặt
tại đó
đã là tăng sĩ rồi, không cần phải “độ” nữa. Ðiều này cũng xác nhận
thêm về
sự có mặt của một tăng đoàn quan trọng tại Giao Châu vào thế kỷ
thứ hai
phù hợp với lời nói của Mâu Tử về những tệ đoan trong giơi Sa Môn
thời ấy.
6. Tại trung tâm Luy Lâu, việc sáng
tác
được chú trọng sớm hơn ở các trung tâm khác, như ta đã biết, Mâu
Tử viết
tập Lý Hoặc Luận là cuốn sách sáng tác về đạo Phật cổ nhất
mà ta
hiện có bằng Hán tự. Tăng Hội cũng chú trọng nhiều về sáng tác:
ông đã
biên tập cuốn Lục Ðộ Yếu Mục, sáng tác Nê Hoàn Phạm Bối,
chú
giải các kinh An Ban Thủ Ý, Pháp Cảnh và Ðạo Thọ
cũng viết
bài tựa cho ba kinh này (Cao Tăng Truyện). Trong những kinh
Tăng
Hội dịch, bây giờ chỉ còn Lục Ðộ Tập Kinh, mà Thang Dụng
Hình nghĩ
là một tác phẩm của Tăng Hội chứ không phải một bản dịch từ Phạn
văn.
Những chú sớ của Tăng Hội về các kinh An Ban Thủ Ý, Pháp
Cảnh
và Ðạo Thọ đã mất, duy các bài tựa các kinh An Bang Thủ Ý
và
Pháp Cảnh là còn.
Trong số những tác phẩm kia, một số
đã
được sáng tấc tại đất Kiến Nghiệp, và một số tại Giao Châu. Ðiều
ta cần
lưu ý đây là so với các trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, trung
tâm Luy
Lâu ngoài việc dịch thuật: Chi Khiêm ở Kiến Nghiệp tuy có biên tập
Tán
Bồ Tát Liên Cú Phạm Bối và chú thích Liễu Bản Sinh Tử Kinh
ngoài ra đều là tác phẩm dịch thuật. Ta có thể kết luận là trung
tâm Phật
Giáo Luy Lâu đã trưởng thành trước hai trung tâm Phật Giáo đất
Hán.
[1]
Tác phẩm này được viết vào cuối thế kỷ thứ hai
[2]
Do Trung Hoa Thư Cục ở Bắc Kinh tái bản năm 1963. Bản đầu tiên
được in
năm 1955.
[3]
Theo câu chuyện này, vua Hán Minh Ðế nằm mộng thấy một người
vàng bay
qua trước điện, sáng ra cho người đi sang Tây Vức để tìm đạo
Phật.
Chuyện được cho là xảy ra trong niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười,
tức là
năm 67 của thế kỷ thứ nhất kỷ nguyên Tây lịch.
[4]
Hán Linh Ðế mất vào năm 189.