Lễ Phật và Y học (Phần II)

PHẦN THỨ HAI:

PHƯƠNG PHÁP LỄ PHẬT VÀ QUÁN TƯỞNG

I. PHẬT LÀ ÐẤNG GIÁC GIẢ

Lễ Phật để khai phát Giác Tánh, chứ không phải là sùng bái mù quáng, cũng chẳng phải là một cử chỉ được làm theo thói quen. Lễ Phật là để bồi dưỡng năng lực “hồi quang phản chiếu”, khiến cho giác tánh được phát khởi trước khi quán tánh (thói quen) phát hiện, chứ không phải là một động tác tầm thường. Vì thế, phải luôn luôn quán chiếu từng động tác trong từng ý niệm.

Do đó, khi lễ Phật, xin chú ý là đừng nhắm mắt, từ đầu đến cuối là ngưng đọng ánh mắt để quán chiếu chính mình (đó gọi là Quán Tự Tại). Thị lực tập trung vào chính giữa, làm gì cũng tưởng như có đức Phật ngự trên đảnh đầu đang nhìn mình, chẳng thể hồ đồ bất giác. Phải thâu tóm sáu căn, đừng để chúng tán loạn.



II. ÐỨNG NHƯ CÂY TÙNG, NGAY NGẮN NHƯNG THONG DONG

Hai chân đứng theo thế “tiền bát, hậu nhị” (hai mũi chân cách nhau 8 phân, hai gót chân cách nhau 2 phân). Ðầu ngay thẳng (đứng như tùng), dùng gót chân chịu lực, hít thở sâu, toàn thân buông lỏng. Kiểm xem các ngón chân có hoàn toàn buông lỏng hay không. Ðầu như quả chuông treo, rỗng rang, đoan chánh, tai nằm lọt giữa hai vai.

Gáy chạm vào cổ áo, xương cổ thẳng góc với xương ngực. Tưởng như từ điểm giữa hai chân qua cột sống, lên đến giữa đỉnh đầu dường như nằm trên cùng một đường thẳng.

Thả lỏng các khớp nơi hàm dưới, đừng nghiến chặt răng. Lưỡi, vòm họng, yết hầu đều thư giãn. Ðầu lưỡi đặt ngay nơi vòm họng sau hàm răng trên. Cuống lưỡi co lên trên như thể đang ngậm một búng không khí (giữ như vậy thì dễ dàng nuốt nước miếng ứa ra trong họng, khí quản lẫn yết hầu đều thông thoáng).

Cơ thể thư giãn thì khí mạch thông, đầu nhẹ nhõm, dễ giữ gìn chánh niệm, chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn.



III. CHẮP TAY NHIẾP TÂM

Hai tay chắp ngang ngực (vai và cánh tay phải thư giãn). Hai gốc ngón cái phải nằm ngang huyệt Ðản Trung (huyệt Ðản Trung là trung điểm của đường thẳng nối liền hai đầu vú). Hai tay đừng áp lên ngực, nên đặt cách xa ngực chừng một phân. Kiểm xem các ngón tay có áp sát vào nhau cùng hướng thẳng ngay ngắn lên trên hay không (nếu tâm tán loạn thì ngón út sẽ tự tách xa các ngón khác).

Tay chắp ngay ngắn nhưng phải rất thư giãn, đừng gồng cứng, hai tay dường như dựa vào nhau ngơi nghỉ. Hít thở sâu, vai thả lỏng, đừng áp sát tay vào nách. Giữ tư thế đoan chánh nhưng thư giãn, hít thở sâu, sung mãn. Thâu nhiếp ánh mắt, chú mục nơi chính giữa hai tay (trung tuyến). Ở mức cao hơn thì quán sát hơi thở ra vào nơi mũi.



IV. CÚI ÐẦU

Mềm mại cúi đầu xuống lễ kính. Ðầu giống như nhánh lúa chín ươm ngả xuống cho đến khi cằm chạm vào ngực. Cổ hoàn toàn buông lỏng đừng dùng sức (thoạt đầu nếu không làm được như vậy là do gân cổ đã cứng lâu ngày. Cứ buông lỏng thì lâu ngày sẽ như khi ngủ gật, đầu tự nhiên gục xuống dễ dàng, chẳng cần phải tốn sức, tự nhiên sẽ buông lỏng được gân cổ).

Vẫn thâu nhiếp ánh mắt, phản quán chính mình. Lễ Phật là tu tập “tịnh trong động”, dù trong khi lễ lạy, cảnh vật trước mắt thay đổi, thủy chung vẫn lưu ánh mắt nơi chính giữa.















V. KHOM MÌNH

Chú ý: Ðộng tác này không phải là gập lưng ngả về trước khiến trọng tâm rơi vào đầu ngón chân, mà là khom mình hướng tâm (vẫn giữ trọng tâm nơi gót chân), hai gót chân vẫn đứng yên. Giống như khi đang nằm ngửa, muốn ngồi dậy phải dùng sức của bụng eo, đùi, gối; khi cúi mình phải đẩy xương sống ra sau. Có thể thót bụng lại chừng một phân, nhưng hai tay phải giữ mềm mại, bất động.



VI. THẢ LỎNG VAI (CÚI XUỐNG)

Vẫn cúi đầu, khom mình, hai tay vẫn chắp lại buông thẳng xuống, hướng đúng ngay nơi trung điểm của hai gót chân. Hai tay chắp sát vào nhau. Hướng theo đường thẳng tưởng tượng đi từ ngực xuống đến điểm chính giữa hai gót chân, mượn trọng lực để hạ hai vai xuống. Tư thế này tiêu trừ sự căng thẳng thường nhật của hai vai. Ðầu hai bàn tay buông xuống hướng đúng vào ngay điểm giữa hai gót chân là chuẩn mực để kiểm nghiệm xem mình có làm đúng động tác hay không.

* Ðộng tác 7 và 8 là hai động tác liên tục. Tay chạm đất là động tác chuyển tiếp trong nháy mắt. Dù động tác này thực hiện rất nhanh (chừng 3 giây), nhưng việc giữ nguyên trọng tâm, độ mở của hai mũi bàn chân, cũng như sức nơi Ðan Ðiền là những điều rất trọng yếu. Vì thế không thể lướt qua sơ sài được mà phải quan sát tách bạch.



VII. CONG GỐI - CONG THÂN HẠ MÌNH XUỐNG

Ðầu vẫn cúi, khom mình, buông hai tay xuống dưới, bắp chân vẫn giữ thẳng, gập gối lại cho đến khi hai tay chạm đất (tựa hồ sau lưng mình có cái ghế, nhưng bắp chân đặt sát chân ghế, hướng ra sau ngồi xuống ghế). Trong khi thực hiện động tác này, ánh mắt chuyên chú tại trung điểm của hai gót chân; rồi nhẹ nhàng tách hai tay ra, đặt hai bên bắp chân, xoay lòng bàn tay hướng ra sau để dễ áp lên mặt đất.

Chú ý: Trong khi làm động tác này, đừng để bắp chân ngả về trước.





















VIII. QUỲ GỐI SÁT ÐẤT

Khi đầu ngón tay vừa chạm đất, nhấc gót chân lên khỏi mặt đất, chạm gối xuống đất, quỳ xuống. Khi vừa quỳ xuống liền duỗi bàn chân và các ngón chân ra phía sau. Lúc quỳ xuống, đầu các ngón tay áp đất sao cho ngang với đầu gối. Hai đầu gối cách nhau chừng 5 phân (đừng tách đầu gối ra xa nhau quá kẻo lúc nằm rạp xuống, xương sống bị võng xuống quá mức). Khi đầu gối đã chạm đất, hai tay liền buông lỏng (chẳng phí sức để chống đỡ thân), từ đầu đến cuối giữ trọng tâm ở nguyên một chỗ.



IX. QUỲ TỌA THƯ THÁI

Ngồi xuống, hai lòng bàn chân hướng lên trên tạo thành chữ V. Hai ngón cái khẽ chạm nhau, đừng để chúng đè lên nhau. Ngồi lên mặt trong của hai bàn chân. Qùy một cách yên định sao cho trọng lượng cơ thể đè lên hai gót chân.















X. DUỖI TAY ÐÓN PHẬT

Ngồi vững vàng, trọng tâm đặt tại phía sau giữa gót chân, thả lỏng thân. Vẫn cúi đầu, hai tay mềm mại hướng ra chính giữa phía trước, duỗi thẳng (đầu các ngón tay chạm hờ mặt đất). Tuy cánh tay duỗi thẳng, nhưng vẫn thư thả, chẳng gồng cứng, chỉ dùng lực giữ hai vai tách ra mà thôi. Lúc này bụng dưới hướng gần sát mặt đất, phần thân trên vẫn thư giãn (lực đặt tại Ðan Ðiền).



XI. NGŨ THỂ ÐẦU ÐỊA

Ngồi vững vàng, vẫn trong tư thế quỳ, dùng đầu ngón tay giữa làm điểm tựa chống xuống đất, hai khủy tay hướng ra ngoài, đặt hướng về trước sao cho nằm ngang với hai lỗ tai. Giãn hai vai ra, phía sau vai vẫn giữ bằng thẳng, đừng để chúng bị giật cục, tách hai nách ra (tăng dung lượng hoạt động của phổi). Ngón tay, lòng bàn tay đều áp sát đất.

Trong khi tách hai khủy tay ra, phần thân trên đồng thời hạ xuống. Nằm mọp xuống rồi thì Ấn Ðường (phần giữa hai chân mày) hướng xuống dưới, áp lên đất (bất tất phải hướng ra trước, hướng xuống dưới là được, khiến cho xương sống gồ lên phía trên). Làm như vậy giúp cho ta hô hấp triệt để. Ðảnh đầu, lưng và điểm chính giữa hai gót chân phải nằm trên cùng một đường thẳng.


















XII. LẬT NGỬA BÀN TAY ÐÓN PHẬT

Trước hết, nhè nhẹ lật nghiêng bàn tay lên (lấy ngón út làm điểm tựa), rồi từ từ chuyển lòng bàn tay ngửa lên trên, như đóa sen nở, như dốc lòng cúng Phật. Lúc lật tay lên, lật sao cho lòng bàn tay nằm thẳng, hướng thẳng lên phía trên (đừng nghiêng ngả). Ðừng căng cứng bàn tay, lật xong liền thả lỏng bàn tay ngay lập tức khiến cho các ngón tay mềm mại, nhẹ nhàng như những cánh sen.

Dùng bàn tay sen ấy tiếp lấy chân Phật, hai bàn tay đặt cách đầu khoảng một nắm tay, hai ngón giữa cách nhau chừng 4 cm. Các ngón tay tuy thả lỏng nhưng vẫn giữ cho chỉnh tề, nhu nhuyễn.



XIII. HÒA NHẬP CÙNG TÂM PHẬT, CHÚNG SANH VÀ PHẬT CẢM ỨNG NHAU

Lúc ngửa tay đón Phật, quán tưởng Ðức Phật đang đứng trên bàn tay sen của mình tiếp nhận sự lễ kính. Ngay khi ấy, tâm mình và tâm Phật hòa nhập, mỉm cười. Tưởng Phật phóng quang chiếu ta, Phật quang chiếu thẳng vào đỉnh đầu, sung mãn toàn thân tâm (lúc ấy, toàn thân buông lỏng, mỉm cười, tự nhiên hô hấp thật sâu).



XIV. KHÔI PHỤC TƯ THẾ QUỲ TỌA

Sau khi tiếp Phật xong, trước hết, lật bàn tay lại (dùng ngón út làm điểm tựa), úp lòng bàn tay xuống dưới, áp thẳng trên mặt đất. Dựa vào sức hít vào để nhấc đầu lên, khôi phục lại tư thế quỳ tọa (hít vào tự nhiên, đừng cưỡng sức). Hai tay vẫn úp sát đất, đặt ngang với đầu gối.






XV. QUỲ, DỰNG LÒNG BÀN CHÂN ÐỨNG LÊN

Dùng đầu gối làm điểm tựa (hai tay đặt bên gối chỉ phụ giúp hờ mà thôi). Nhấc mông lên để hai chân linh hoạt đổi thành dạng chữ V ngược (khi quỳ ngồi xuống, hai chân chụm đầu ngón cái lại, bè gót ra thành hình chữ V. Khi chuẩn bị đứng lên, hai gót chân chụm lại, hai đầu bàn chân chõe ra tạo thành chữ V ngược).

* Cách chuyển chân:

Hai ngón chân cái hướng ra ngoài, điểm xuống đất (hai ngón chân cái cách nhau 8cm). Hai gót chân chụm lại, nhưng vẫn cách nhau chừng 2cm (mục đích là để khi đứng lên, vị trí của chân giống như thế đứng trước khi quỳ xuống - tiền bát hậu nhị).



XVI. KHÔI PHỤC TƯ THẾ ÐỨNG

Dựa vào sức hơi thở (đừng cố ý thở quá sức, cứ hít thở tự nhiên), giống như con rối gỗ bị dây kéo lên, ta cũng như được Phật kéo theo đường thẳng chính giữa thân đứng lên, rất nhẹ nhàng, linh hoạt, trong khoảnh khắc đã khôi phục lại tư thế đứng (đứng lên hoàn toàn chẳng tốn sức cơ lưng, cũng chẳng cần dùng đến hai tay chõi xuống đất nhấc thân lên). Từ đầu đến cuối, luôn giữ đầu ở vị trí cao nhất (mông không được cao hơn đầu). Cần phải dụng tâm thể hội điểm trọng yếu này: dùng sức nhấc đầu lên, chẳng bận tâm đến các bộ vị khác của thân thể.

Chú ý: Trong khi đứng lên, đừng nhấc mông trước rồi mới nhấc đầu sau. Nếu làm vậy sẽ rất tốn sức khiến hông nhức, lưng đau.
Tags: ,

About author

A lotus for you, the Buddha to be