Chu Mạnh Trinh tiên sinh đã gọi Cực lạc quốc là Lạc phố,
tức là phố Cực lạc hay là phố An lạc. Câu cuối cùng của Bài tựa
Truyện Kiều,
tiên sinh viết: “Bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc phố” (bản dịch
của Đoàn
Tư Thuật). Không phải chỉ riêng tiên sinh mà ngay cả chúng ta đang sống ở
cõi
Ta-bà cũng đều cố gắng tu tâm dưỡng tánh, không làm việc ác, siêng làm
điều
thiện; cầu mong sao khi rời cõi tạm này sẽ được vãng sanh về Tây phương
Cực lạc
hay theo cách gọi rất hay của Chu Mạnh Trinh là Lạc phố.
Chưa biết ngày nào chúng ta về
Lạc phố. Ngày ấy, không ai biết trước được. Lẽ thường, ai cũng muốn được
cư trú
ở cõi nước an lạc, hạnh phúc và tự do. Chúng ta rất muốn xa rời cái bờ
mê muội
của sự ghen tỵ, kỳ thị, hận thù và sầu khổ để tới bờ của từ bi, hỷ xả,
của an
lạc, hạnh phúc và thảnh thơi. Đức Thế Tôn đã hiến tặng cho chúng ta một
pháp tu
rất mầu nhiệm, đó là Bố thí Ba-la-mật. Chúng ta có thể thực tập pháp tu
này để
vượt qua bờ bên kia ngay trong đời sống hàng ngày, xây dựng một phố an
lạc ngay
bây giờ, ở đây, nơi chúng ta đang sống, bằng pháp tu này. Bố thí
Ba-la-mật là pháp tu đầu tiên trong Lục độ (bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ).
Hạnh bố thí
là cúng dường, hiến tặng hay san sẻ cho mọi người một điều gì đó như vật
chất,
tiền bạc (tài thí), những lời khuyên hướng thiện, những lời nói khai tâm
mở trí
(pháp thí) và sự an ủi, chở che, giúp vượt qua nỗi cô đơn, sợ hãi (vô úy
thí).
Trong đó, giúp người chuyển hóa được khổ đau và sợ hãi là pháp tu cao
quý nhất
trong các loại bố thí. Thực hành sự cho đi mà nhẹ nhàng, thảnh thơi,
chẳng
luyến lưu, không vướng bận bất cứ điều gì thì đạt đến Bố thí Ba-la-mật,
xả ly
tuyệt đối, đến bờ kia.
Khi ta đem
lòng giận một ai đó thì ta đau khổ. Nếu ta thực tập bố thí, buông bỏ sân
hận
thì niềm sân hận trong ta được chuyển hóa và ta vượt sang được bờ bên
kia tức
khắc; bờ của vô sân, an lạc, hạnh phúc và từ bi. Ta biết trong chiều sâu
tâm
thức của ta đều có hạt giống của sự độ lượng, sẵn lòng muốn hiến tặng,
đem cho
người khác niềm vui, niềm hạnh phúc. Những hạt giống và tâm hành này
luôn có
mặt trong ta.
Sự bố thí xem
ra cũng đơn giản và tự nhiên, phát xuất từ cái tâm thương yêu vô điều
kiện.
Người mới thực tập việc bố thí, cúng dường, hiến tặng thì hay ngại được
bố thí,
tức là nhận quà của ai đó. Thế nhưng, tương quan giữa cho và nhận là một
điều
lý thú, cho tức là nhận mà nhận tức là cho; sự thay đổi ngôi vị này
khiến cho
ta phải vắt óc suy gẫm. Người phương Tây nói “Give and take” cũng
hàm
nghĩa như vậy.
Có một lần
tôi được đọc một câu chuyện viết về thầy Thiên Ân của một tác giả nữ, cô
này là
đệ tử của thầy. Khi thầy Thiên Ân sắp mất, cô thường hay đến thăm thầy
và cô
rất buồn khi chứng kiến cái cảnh thầy đau đớn vì bệnh tật. Cô suy nghĩ
hoài mà
không biết làm gì cho thầy vui, để thầy bớt đau. Một hôm khi cô hỏi: “Thầy
muốn
con làm gì?” thì thầy bảo cô mua cho thầy chiếc mũ đội cho ấm đầu.
Hôm
đó là ngày cuối tuần, đã 7 giờ tối, các tiệm lớn đều đóng cửa, nhưng
thầy muốn
cô đi mua ngay. Cô đành chạy ra một tiệm nhỏ lúc đó còn mở cửa mua ngay
chiếc
mũ đem về. Thầy nhận và tỏ vẻ rất hoan hỷ. Còn cô thì khỏi phải nói, rất
vui vì
làm được một việc vừa lòng thầy.
Sau đó ít lâu
thầy qua đời. Khi cô tới dọn dẹp phòng thầy, cô thấy trong tủ thầy có cả
tá mũ
đủ loại rất đẹp. Chiếc mũ cô mua biếu thầy hôm nọ thuộc loại tầm thường
nhất.
Cô chợt tỉnh ra. Tưởng là cô đã làm cho thầy vui. Cô là người cúng
dường, là
người làm phước. Thực ra, chính thầy đã cho cô cơ hội để cô được vui một
lần
cuối với thầy, để cô được phước báu. Vậy là chính cô mới là người nhận,
người
mang ơn. Từ câu chuyện đó, cô nhận biết trong cuộc đời nghĩ tới cùng
nhiều khi
người cho lại chính là người nhận. Người nhận lại là người cho. Không
biết ai
là người cho ai và ai phải cám ơn ai. Thôi thì cứ cám ơn đời và cám ơn
nhau
vậy.
Tôi rất thích
câu chuyện đó, lâu lâu đem ra đọc đi đọc lại đến nhập tâm. Nhưng trong
đời sống
hàng ngày tôi vẫn thích làm cho người khác, chứ không thích ai làm cho
mình
điều gì. Khiến cho những đứa em của tôi phải phàn nàn vì chúng muốn
giúp cho tôi cái gì tôi
cũng tìm cách chối từ, bởi một lý do là tôi còn đang tự lo liệu được và
không
muốn mang ơn ai, dù người đó là những đứa em ruột thịt của mình. Biết
rằng
nhiệm vụ làm anh cả đã giúp đỡ cho các em rất nhiều khi chúng chưa
trưởng
thành. Bây giờ các em đã ăn nên làm ra, chúng rất muốn đền đáp cho anh
một
chút, nhưng bị anh từ chối và chúng buộc lòng phải thốt lên: “Anh đã
biết
cho thì phải biết nhận chứ? Nếu không biết nhận thì chưa chắc đã biết
cho!”.
Tôi tiếp tục
biện hộ cho cái quan điểm của mình, nhưng câu nói của đứa em in chặt vào
trong
đầu của tôi: “Không biết nhận thì cũng không biết cho”. Tôi cũng
đã từng
suy nghĩ chuyện phân biệt cho và nhận chỉ là sản phẩm của “cái tôi”
đầy
tự ái, mà thực ra cả hai chỉ là một. “Có đi có lại mới toại lòng
nhau”,
“Give and take”, cho và nhận, nhận và cho; như là một bí quyết giao
tiếp
luân lưu tối thượng trên cõi đời này. Phải chăng cái “ngã” còn
đứng ở đó
đặt ra những chuyện “người cho kẻ nhận”, “kẻ có người không”, người
trên kẻ
dưới”… Mặc dầu kinh Phật đã dạy hạnh bố thí là hạnh đứng đầu của
người con
Phật. Bố thí theo tinh thần Bồ-tát thực hành Bố thí Ba-la-mật nghĩa là
bố thí
mà không thấy người bố thí, người tiếp nhận bố thí và vật bố thí, để
không còn
có người và ta, không còn tự ái, tự tôn hay tự ti. Vì khi còn phân biệt
giữa
người và ta tức là còn có “ngã”, còn nhị nguyên, còn tính toán
hơn
thiệt, còn có đi có lại, còn rất là đời, chưa đi vào con đường đạo. Tất
cả
những cái thấy, những cảm nhận, những ý nghĩ, những quán chiếu, những
suy tư đó
đầy ắp trong đầu. Tôi hiểu hết mọi sự bằng trí óc nhưng chưa thấu suốt
bằng con
tim để ứng xử mọi việc tự nhiên như hơi thở.
Đến khi lâm
bệnh nằm viện cả tháng, đầu óc mịt mù, suy nghĩ rối tung, thân thể hoàn
toàn
bất lực. Tôi sống được là hoàn toàn nhờ vào sự giúp đỡ của mọi người.
Tôi đã
nhận rất nhiều từ ông bác sĩ phẫu thuật, cô y tá hàng ngày đến thay
thuốc, đến
bà dọn phòng và bao nhiêu người trợ giúp khác cho tôi được mau phục hồi.
Tôi đã
nhận nhiều từ các em tôi, từ họ hàng, bạn hữu thân thương; những giúp đỡ
hữu
hình và vô hình trợ lực cho tinh thần tôi khỏi bị sụp đổ. Tôi nhận từ
những
linh thiêng của đất trời ân huệ cho tâm tôi mở ra, bằng lòng đón nhận
tất cả từ
cái đau cho đến tận cùng là cái chết. Bệnh hoạn làm cho lực bất tòng
tâm, làm
tương lai dừng lại ở hiện tại, mọi dự tính đều tiêu tan, vì chính sự
sống cũng
đang bấp bênh, biến hóa khó lường. Trên bờ vực bấp bênh đó, cái “ngã”
nín thở nằm yên đợi chờ. Rồi trong cái khoảnh khắc yên lặng vô biên ở
bên trong
cùng với những yêu thương chân thật bao bọc bên ngoài, được dẫn dắt bởi
tuệ
giác nên tâm trí bỗng bung ra khiến cái “tôi” chan hòa vào trong
tất cả.
Câu chuyện
của thầy Thiên Ân, câu nói của đứa em “không biết nhận thì làm sao
biết cho”
và những hiểu biết kinh Phật nói về hạnh bố thí cùng với những kinh
nghiệm về
cho và nhận thu thập bấy lâu trong cuộc đời, bỗng hiện ra tia sáng của
sự khai
mở. Tôi như một tù nhân sau bao nhiêu năm nằm trong ngục tối, được thấy
ánh
sáng chói lòa và vạn vật rạng rỡ của một thế giới con người tự do.
Khi ra khỏi
viện về nhà, mọi người đến thăm, tôi không còn thắc mắc khi nhận quà,
cám ơn mà
không lúng túng. Chúng ta có thể gặp lại nhau, nhưng cũng có thể không
còn gặp
lại nhau nữa. Biết vậy sẽ không còn ngại ngùng khi nhận và mong mỏi khi
cho. Ân
nghĩa nguyện xin đền đáp, nhưng không phải tìm cho được ân nhân cũ để
trả
nghĩa, mà luôn giữ đầy ắp tấm lòng biết ơn để luân lưu những ân huệ nhận
được
từ người này sang cho người khác, để chuyển hóa những đắng cay của sân
hận nhận
được thành ngọt ngào của hỷ xả và tha thứ đem hiến tặng người kế bên mà
không
cần ghi vào trong tâm sổ sách tuổi tên người.
Lúc này đây,
tôi không làm được gì cho ai, nhưng sao tôi vẫn cảm thấy mình có rất
nhiều thứ
để cho, phải chăng vì tôi nhận được từ đất trời, từ mọi người xung quanh
rất
nhiều mỗi ngày, nhận được nhiều thì có rất nhiều cái để cho đi. Vì tôi
chỉ đứng
đó để chuyển hóa luân lưu đi tất cả sau khi đã thụ hưởng vừa đủ cho phần
mình.
Rồi đến lúc thấy mình không còn đứng đó để nhận hay cho, hay để thấy vui
trong
lòng, mà chỉ thấy một sự luân lưu nhẹ nhàng không ngừng, tự nhiên như
bốn mùa
thay đổi, như lẽ vô thường của vạn vật.
Tôi bỗng hiểu tại sao trong sáu pháp Lục độ
Ba-la-mật, bố
thí là hạnh đứng đầu. Khi đã thực hành bố thí và hiểu ra chân lý thì ta
sẽ có
được quyền tự do căn bản và tối thượng thực sự của con người; có được an
lạc và
hạnh phúc vô biên ở cõi Lạc phố trần gian này.
Lê Đàn